Trong hệ tuần hoàn (nhỏ và lớn), khu vực có áp lực cao nhất là:
A.
TM phổi
B.
ĐM phổi
C.
Mao mạch
D.
ĐM chủ
Đáp án
Đáp án đúng: D
Trong hệ tuần hoàn, áp lực cao nhất thường được tìm thấy ở động mạch chủ. Động mạch chủ là động mạch lớn nhất xuất phát từ tim, và nó nhận máu trực tiếp từ tâm thất trái. Tâm thất trái co bóp mạnh mẽ để đẩy máu vào động mạch chủ, tạo ra áp lực rất cao để máu có thể được đưa đi khắp cơ thể. Các khu vực khác như tĩnh mạch phổi, động mạch phổi và mao mạch có áp lực thấp hơn nhiều so với động mạch chủ.
Trong hệ tuần hoàn, áp lực cao nhất thường được tìm thấy ở động mạch chủ. Động mạch chủ là động mạch lớn nhất xuất phát từ tim, và nó nhận máu trực tiếp từ tâm thất trái. Tâm thất trái co bóp mạnh mẽ để đẩy máu vào động mạch chủ, tạo ra áp lực rất cao để máu có thể được đưa đi khắp cơ thể. Các khu vực khác như tĩnh mạch phổi, động mạch phổi và mao mạch có áp lực thấp hơn nhiều so với động mạch chủ.
Dấu mạch giật (pulsus bisferiens) là một dấu hiệu mạch nảy hai lần trong mỗi chu kỳ tim. Dấu hiệu này thường gặp trong bệnh cơ tim phì đại tắc nghẽn (hypertrophic obstructive cardiomyopathy - HOCM) và hở van động mạch chủ nặng. Các lựa chọn khác không liên quan đến dấu mạch giật: - Tắc buồng thoát thất phải: thường gây ra mạch yếu. - Pha Korotkoff: liên quan đến âm thanh nghe được khi đo huyết áp bằng phương pháp Riva-Rocci, không phải mạch giật. - Thời điểm nghe được thì tâm thu: mô tả chung chung và không đặc hiệu cho dấu mạch giật.
Câu hỏi yêu cầu xác định phát biểu đúng về nghe tim. - Phương án 1 sai vì tràn khí màng phổi gây khó khăn cho việc nghe tim, không liên quan đến nghe thêm vùng thượng vị. - Phương án 2 đúng vì cần nghe thêm ở các vị trí động mạch cảnh phải, cảnh trái và hạ đòn trái để phát hiện các tiếng thổi do hẹp hoặc bất thường mạch máu. - Phương án 3 sai vì hẹp van động mạch chủ thường nghe rõ nhất dọc bờ trái xương ức, không phải bờ phải. - Phương án 4 sai vì ổ van động mạch phổi chỉ có một vị trí nghe rõ nhất. Vậy, phương án đúng là phương án 2.
Câu hỏi này kiểm tra kiến thức về bệnh lý thực quản, đặc biệt là trào ngược dạ dày thực quản (GERD) và các triệu chứng liên quan.
Phương án 1 đúng vì mô tả chính xác cơ chế và triệu chứng của trào ngược dạ dày thực quản (GERD). Acid trào ngược từ dạ dày gây viêm thực quản, có thể gây co thắt và dẫn đến cảm giác đau nóng bỏng sau xương ức và vùng hạ vị.
Phương án 2 đúng vì các yếu tố như rượu, aspirin, tư thế nghiêng người ra sau (làm tăng áp lực lên cơ thắt thực quản dưới) và ăn no (tăng thể tích dạ dày) đều có thể làm tăng trào ngược và làm nặng thêm các triệu chứng đau.
Phương án 3 đúng vì thuốc băng dạ dày và các thuốc giảm acid (như thuốc ức chế bơm proton - PPI, thuốc kháng thụ thể H2) giúp trung hòa acid hoặc giảm sản xuất acid, từ đó làm giảm các triệu chứng của trào ngược.
Phương án 4 sai vì co thắt thực quản không phải *luôn luôn* kèm theo trào ngược acid. Co thắt thực quản có thể xảy ra độc lập hoặc do các nguyên nhân khác ngoài trào ngược. Hơn nữa, đau do co thắt thường được mô tả là đau xoắn vặn, nhưng trào ngược thường gây đau nóng rát hơn.
Vì vậy, các phương án 1, 2 và 3 đúng, trong khi phương án 4 sai.
Ran to hạt và ran nhỏ hạt là những loại ran thường gặp trong các bệnh lý có ứ đọng chất tiết phế quản và viêm phế quản. Ran to hạt xuất hiện khi không khí đi qua các phế quản lớn chứa đầy dịch, tạo ra âm thanh thô ráp. Ran nhỏ hạt xuất hiện khi không khí đi qua các phế nang hoặc phế quản nhỏ chứa dịch, tạo ra âm thanh lách tách. Ran rít thường liên quan đến sự co thắt hoặc hẹp đường thở, còn tiếng cọ màng phổi thì liên quan đến viêm màng phổi. Trong trường hợp này, ran to hạt là đáp án phù hợp nhất vì nó trực tiếp liên quan đến sự di chuyển của không khí qua chất tiết trong phế quản lớn.