Khái niệm nào sau đây không thể lí giải bằng đường giới hạn khả năng sản xuất (PPF)
A.
Sự khan hiếm
B.
Chi phí cơ hội
C.
Quy luật chi phí cơ hội tăng dần
D.
Cung cầu
Đáp án
Đáp án đúng: E
Đường giới hạn khả năng sản xuất (PPF) là một mô hình kinh tế được sử dụng để minh họa sự khan hiếm, chi phí cơ hội và quy luật chi phí cơ hội tăng dần. Nó cho thấy các kết hợp khác nhau của hai hàng hóa mà một nền kinh tế có thể sản xuất hiệu quả nhất với nguồn lực và công nghệ hiện có.
* Sự khan hiếm: PPF thể hiện sự khan hiếm vì nền kinh tế không thể sản xuất vô hạn tất cả các hàng hóa. * Chi phí cơ hội: PPF minh họa chi phí cơ hội của việc sản xuất nhiều hơn một hàng hóa so với hàng hóa khác. * Quy luật chi phí cơ hội tăng dần: Hình dạng lõm của PPF thường phản ánh quy luật chi phí cơ hội tăng dần, tức là chi phí cơ hội của việc sản xuất thêm một đơn vị hàng hóa này tăng lên khi bạn sản xuất nhiều hơn hàng hóa đó.
Cung và cầu là các khái niệm liên quan đến thị trường và sự tương tác giữa người mua và người bán, xác định giá cả và số lượng hàng hóa dịch vụ được giao dịch. PPF không trực tiếp mô tả cơ chế cung cầu.
Do đó, khái niệm không thể lí giải bằng đường giới hạn khả năng sản xuất là cung cầu.
Đường giới hạn khả năng sản xuất (PPF) là một mô hình kinh tế được sử dụng để minh họa sự khan hiếm, chi phí cơ hội và quy luật chi phí cơ hội tăng dần. Nó cho thấy các kết hợp khác nhau của hai hàng hóa mà một nền kinh tế có thể sản xuất hiệu quả nhất với nguồn lực và công nghệ hiện có.
* Sự khan hiếm: PPF thể hiện sự khan hiếm vì nền kinh tế không thể sản xuất vô hạn tất cả các hàng hóa. * Chi phí cơ hội: PPF minh họa chi phí cơ hội của việc sản xuất nhiều hơn một hàng hóa so với hàng hóa khác. * Quy luật chi phí cơ hội tăng dần: Hình dạng lõm của PPF thường phản ánh quy luật chi phí cơ hội tăng dần, tức là chi phí cơ hội của việc sản xuất thêm một đơn vị hàng hóa này tăng lên khi bạn sản xuất nhiều hơn hàng hóa đó.
Cung và cầu là các khái niệm liên quan đến thị trường và sự tương tác giữa người mua và người bán, xác định giá cả và số lượng hàng hóa dịch vụ được giao dịch. PPF không trực tiếp mô tả cơ chế cung cầu.
Do đó, khái niệm không thể lí giải bằng đường giới hạn khả năng sản xuất là cung cầu.
Độ co giãn của cầu (price elasticity of demand) đo lường sự thay đổi phần trăm trong lượng cầu khi giá thay đổi một phần trăm. Trên đường cầu tuyến tính, độ co giãn thay đổi dọc theo đường. Ở mức giá cao, độ co giãn của cầu lớn (co giãn nhiều), vì một sự thay đổi nhỏ trong giá sẽ dẫn đến một sự thay đổi lớn trong lượng cầu. Ở mức giá thấp, độ co giãn của cầu nhỏ (co giãn ít), vì một sự thay đổi trong giá sẽ dẫn đến một sự thay đổi nhỏ trong lượng cầu. Do đó, khi giá cao thì độ co giãn nhiều.
Hàm hữu dụng của Bắc là UB = X(Y-2). Điều này có nghĩa là Bắc thích X (vì X có hệ số dương) và Bắc chỉ thích Y khi Y > 2. Hàm hữu dụng của Nam là UN = X(2-Y). Điều này có nghĩa là Nam thích X (vì X có hệ số dương) và Nam chỉ thích Y khi Y < 2 (hoặc Nam không thích Y khi Y > 2). Vậy, cả Bắc và Nam đều thích X, Bắc thích Y khi Y>2 và Nam không thích Y khi Y>2. Do đó, phát biểu 'Bắc thích X nhưng Nam thì không' là sai.
Để giải bài toán này, ta cần tìm điểm mà doanh nghiệp hòa vốn, tức là tổng doanh thu (TR) bằng tổng chi phí (TC). Trong thị trường cạnh tranh hoàn toàn, giá (P) là cố định và doanh nghiệp là người chấp nhận giá. Lợi nhuận tối đa hóa khi MR = MC, và hòa vốn khi TR = TC, hoặc P = ATC (chi phí trung bình).
1. Tìm hàm chi phí trung bình (ATC): ATC = TC/Q = (5Q³ - 8Q² + 20Q + 500) / Q = 5Q² - 8Q + 20 + 500/Q
2. Tìm hàm chi phí biên (MC): MC = d(TC)/dQ = 15Q² - 16Q + 20
Vì doanh nghiệp hòa vốn và tối đa hóa lợi nhuận, nên P = MC = ATC. Do đó: 15Q² - 16Q + 20 = 5Q² - 8Q + 20 + 500/Q => 10Q² - 8Q = 500/Q => 10Q³ - 8Q² = 500 => 10Q³ - 8Q² - 500 = 0
Đây là một phương trình bậc ba. Để tìm nghiệm Q, chúng ta có thể sử dụng phương pháp thử và sai hoặc sử dụng máy tính bỏ túi hay phần mềm giải toán. Bằng cách thử các giá trị gần đúng, ta thấy Q ≈ 3.97 là một nghiệm hợp lý.
Trong thị trường độc quyền, việc chính phủ quy định giá trần (mức giá tối đa được phép bán) thường nhằm mục đích bảo vệ người tiêu dùng. Giá trần thấp hơn giá độc quyền sẽ làm cho sản phẩm/dịch vụ trở nên dễ tiếp cận hơn đối với người tiêu dùng, từ đó mang lại lợi ích cho họ. Doanh nghiệp độc quyền có thể bị giảm lợi nhuận do không được bán với mức giá mong muốn, và chính phủ có thể phải đối mặt với các vấn đề liên quan đến thực thi và quản lý giá trần.