Chi phí cơ hội là giá trị của lựa chọn tốt nhất bị bỏ qua khi đưa ra một quyết định. Nó đại diện cho lợi ích tiềm năng lớn nhất mà bạn từ bỏ khi chọn một phương án thay vì một phương án khác. Trong các lựa chọn, phương án (1) chỉ nói đến chi phí để ra quyết định, không bao hàm việc mất đi cơ hội khác. Phương án (2) nói chung chung về chi phí của các cơ hội khác, chưa đủ rõ. Phương án (3) lại nói về tổng lợi ích bị mất, trong khi chi phí cơ hội chỉ tính lợi ích lớn nhất bị mất đi. Do đó, phương án (4) chính xác nhất vì nó chỉ rõ lợi ích lớn nhất bị mất đi, đây chính là định nghĩa của chi phí cơ hội.
Chi phí cơ hội là giá trị của lựa chọn tốt nhất bị bỏ qua khi đưa ra một quyết định. Nó đại diện cho lợi ích tiềm năng lớn nhất mà bạn từ bỏ khi chọn một phương án thay vì một phương án khác. Trong các lựa chọn, phương án (1) chỉ nói đến chi phí để ra quyết định, không bao hàm việc mất đi cơ hội khác. Phương án (2) nói chung chung về chi phí của các cơ hội khác, chưa đủ rõ. Phương án (3) lại nói về tổng lợi ích bị mất, trong khi chi phí cơ hội chỉ tính lợi ích lớn nhất bị mất đi. Do đó, phương án (4) chính xác nhất vì nó chỉ rõ lợi ích lớn nhất bị mất đi, đây chính là định nghĩa của chi phí cơ hội.
Chính phủ can thiệp vào thị trường khi thị trường thất bại trong việc phân bổ nguồn lực hiệu quả. Các trường hợp thị trường thất bại thường bao gồm: hàng hóa công cộng (không loại trừ và không tranh giành), hàng hóa có tính ngoại ứng (tích cực hoặc tiêu cực), và các vấn đề liên quan đến thông tin bất cân xứng.
Phương án 1, 2 và 3 đều là các trường hợp thị trường thất bại, do đó chính phủ cần can thiệp. Phương án 4 mô tả hàng hóa tư nhân thuần túy, thị trường có thể phân bổ hiệu quả mà không cần sự can thiệp của chính phủ.
Vậy, phát biểu "Hàng hoá có tính tranh giành (rival) và loại trừ (excludable)" không phải là cơ sở để chính phủ can thiệp vào thị trường.
Đường bàng quan dốc xuống vì nó thể hiện sự đánh đổi giữa hai hàng hóa để duy trì mức độ thỏa mãn không đổi. Nếu người tiêu dùng tăng lượng tiêu thụ của một hàng hóa, họ phải giảm lượng tiêu thụ của hàng hóa khác để tổng lợi ích (tức là mức độ thỏa mãn) không đổi. Phương án 1 mô tả chính xác điều này.
Hiệu suất theo quy mô không đổi (constant returns to scale) xảy ra khi việc tăng tất cả các yếu tố đầu vào theo cùng một tỷ lệ dẫn đến sự tăng sản lượng đầu ra theo cùng tỷ lệ đó. Điều này có nghĩa là chi phí sản xuất bình quân (chi phí trên mỗi đơn vị sản phẩm) không thay đổi khi sản lượng tăng lên. Các yếu tố khác như mức sản lượng đầu ra, tổng chi phí sản xuất và lợi nhuận sẽ thay đổi khi sản lượng thay đổi.
Lợi nhuận kế toán được tính bằng doanh thu trừ đi chi phí kế toán. Trong trường hợp này, doanh thu là 100 triệu đồng và chi phí kế toán là 80 triệu đồng. Do đó, lợi nhuận kế toán là 100 - 80 = 20 triệu đồng.