Theo Luật Đầu tư hiện hành, có 4 loại hợp đồng đầu tư chủ yếu. Đó là: (1) Hợp đồng hợp tác kinh doanh (BCC); (2) Hợp đồng BOT (Xây dựng - Kinh doanh - Chuyển giao); (3) Hợp đồng BTO (Xây dựng - Chuyển giao - Kinh doanh); và (4) Hợp đồng BT (Xây dựng - Chuyển giao).
Theo Luật Đầu tư hiện hành, có 4 loại hợp đồng đầu tư chủ yếu. Đó là: (1) Hợp đồng hợp tác kinh doanh (BCC); (2) Hợp đồng BOT (Xây dựng - Kinh doanh - Chuyển giao); (3) Hợp đồng BTO (Xây dựng - Chuyển giao - Kinh doanh); và (4) Hợp đồng BT (Xây dựng - Chuyển giao).
Doanh nghiệp tư nhân là loại hình doanh nghiệp do một cá nhân làm chủ và tự chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình về mọi hoạt động của doanh nghiệp. Vì vậy, doanh nghiệp tư nhân không có tư cách pháp nhân và chủ doanh nghiệp chịu trách nhiệm vô hạn. Tất cả các đáp án 1, 2 và 3 đều đúng.
Chủ doanh nghiệp có quyền tự chủ trong việc quyết định vốn đầu tư vào hoạt động kinh doanh, bao gồm cả việc tăng hoặc giảm vốn. Tuy nhiên, việc giảm vốn đầu tư xuống thấp hơn vốn đã đăng ký cần phải được đăng ký lại với cơ quan đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật. Vì vậy, cả hai phương án a và b đều đúng.
Theo Luật Doanh nghiệp hiện hành (tùy phiên bản, cần kiểm tra lại luật hiện hành để đảm bảo tính chính xác tuyệt đối), quyết định của Hội đồng thành viên (HĐTV) trong công ty TNHH hai thành viên trở lên thường được thông qua khi có số phiếu đại diện cho ít nhất 65% tổng số vốn góp của các thành viên dự họp chấp thuận. Vì HĐQT trong câu hỏi đề cập có thể là HĐTV, nên đáp án A có vẻ phù hợp hơn. Tuy nhiên, đáp án C có một con số không rõ ràng (48.75%), và không có cơ sở pháp lý rõ ràng. Đáp án B đề cập đến 50% tổng số vốn điều lệ, nhưng điều này thường không đủ để thông qua các quyết định quan trọng, đặc biệt là trong các công ty có nhiều thành viên. Do đó, đáp án A là đáp án có khả năng đúng nhất, tuy nhiên cần xem lại luật để xác nhận thông tin này, và đáp án D (cả A và C đúng) không chính xác vì C không có căn cứ xác đáng.