Papillome thanh quản là bệnh lý thường gặp ở trẻ em, do virus HPV gây ra, hình thành các u nhú trên thanh quản, gây khàn tiếng, khó thở. Các bệnh lý khác như polyp dây thanh, hạt xơ dây thanh, granulome thanh quản thường gặp ở người lớn hơn, đặc biệt là những người sử dụng giọng nói nhiều hoặc có các yếu tố kích thích khác.
Papillome thanh quản là bệnh lý thường gặp ở trẻ em, do virus HPV gây ra, hình thành các u nhú trên thanh quản, gây khàn tiếng, khó thở. Các bệnh lý khác như polyp dây thanh, hạt xơ dây thanh, granulome thanh quản thường gặp ở người lớn hơn, đặc biệt là những người sử dụng giọng nói nhiều hoặc có các yếu tố kích thích khác.
Hạt xơ dây thanh thường xuất hiện ở vị trí chịu nhiều sang chấn nhất khi phát âm. Vị trí này thường là điểm tiếp xúc giữa 2/3 trước và 1/3 sau của dây thanh. Do đó, đáp án chính xác là 2/3 trước với 1/3 sau.
Nghiệm pháp Schwabach so sánh khả năng nghe qua đường xương của người bệnh so với người bình thường. Trong trường hợp tổn thương ốc tai (điếc thần kinh giác quan), cả thời gian nghe qua đường khí đạo và đường xương đều bị rút ngắn. Do đó, phương án "Nếu tổn thương ốc tai thời gian nghe khí đạo bị rút ngắn nhưng thời gian nghe cốt đạo được kéo dài" là sai.
Áp xe thành sau họng là một bệnh nhiễm trùng vùng họng, gây ra các triệu chứng đặc trưng. Triệu chứng cơ năng là những triệu chứng do bệnh nhân cảm nhận được. Trong trường hợp áp xe thành sau họng, bệnh nhân thường đau họng, gặp khó khăn khi há miệng (hạn chế há miệng do đau và sưng), và có thể có tiếng nói thay đổi, trở nên lúng búng do ảnh hưởng đến khả năng phát âm. Nuốt nghẹn và cảm giác như hóc xương cũng có thể xảy ra do khối áp xe gây chèn ép. Các triệu chứng khác như khó thở hoặc tiếng khóc khàn thường ít gặp hơn hoặc liên quan đến các biến chứng hoặc tình trạng nặng hơn.
Sốt cao rét run là triệu chứng điển hình của nhiễm trùng huyết, thường gặp trong các biến chứng nội sọ do tai như viêm màng não, áp xe đại não và viêm tĩnh mạch bên. Viêm mê nhĩ thường không gây ra triệu chứng sốt cao rét run điển hình như các biến chứng nội sọ khác. Trong đó, viêm tĩnh mạch bên có tỷ lệ gây sốt cao rét run cao nhất.
* Viêm màng não: Có thể gây sốt cao, rét run, nhưng ít điển hình bằng viêm tĩnh mạch bên. * Áp xe đại não: Có thể gây sốt, nhưng rét run ít gặp hơn so với viêm tĩnh mạch bên. * Viêm tĩnh mạch bên: Thường gây sốt cao, rét run do nhiễm trùng huyết. * Viêm mê nhĩ: Triệu chứng chủ yếu là chóng mặt, ù tai, giảm thính lực, ít khi gây sốt cao rét run.