Thời hạn xuất trình thông thường của séc là bao nhiêu ngày?
A.
Trong vòng 30 ngày
B.
Là 30 ngày
C.
Là 30 ngày kể từ ngày ký phát
D.
Không quá 6 tháng
Đáp án
Đáp án đúng: C
Theo quy định của pháp luật Việt Nam, thời hạn xuất trình séc thông thường là 30 ngày kể từ ngày ký phát. Điều này có nghĩa là người thụ hưởng séc phải xuất trình séc cho ngân hàng thanh toán trong vòng 30 ngày kể từ ngày người ký phát (người phát hành séc) ký séc. Nếu quá thời hạn này, ngân hàng có thể từ chối thanh toán séc.
Theo quy định của pháp luật Việt Nam, thời hạn xuất trình séc thông thường là 30 ngày kể từ ngày ký phát. Điều này có nghĩa là người thụ hưởng séc phải xuất trình séc cho ngân hàng thanh toán trong vòng 30 ngày kể từ ngày người ký phát (người phát hành séc) ký séc. Nếu quá thời hạn này, ngân hàng có thể từ chối thanh toán séc.
Chủ thể tham gia thanh toán liên ngân hàng điện tử bao gồm tất cả các bên liên quan đến quá trình thanh toán: người phát lệnh (người khởi tạo giao dịch), người nhận lệnh (người thụ hưởng), ngân hàng nhận lệnh (ngân hàng của người thụ hưởng), ngân hàng gửi lệnh (ngân hàng của người khởi tạo) và trung tâm thanh toán (tổ chức đóng vai trò trung gian xử lý các giao dịch giữa các ngân hàng). Do đó, phương án 3 là đáp án đầy đủ và chính xác nhất.
Dịch vụ thông tin tư vấn của NHTM bao gồm nhiều loại, từ cung cấp thông tin về môi trường kinh doanh, tư vấn chứng khoán, lập dự án đầu tư, tư vấn giải ngân, phân tích kinh tế dự án đầu tư đến các dịch vụ khác liên quan đến hoạt động tài chính ngân hàng và tư vấn thị trường bất động sản. Phương án 3 đầy đủ và chính xác nhất về các loại hình dịch vụ này so với các phương án còn lại.
Tín dụng tiêu dùng trả góp là hình thức vay mà người vay phải trả cả gốc và lãi theo nhiều đợt, định kỳ trong suốt thời gian vay. Điều này khác với việc trả một lần hoặc trả gốc nhiều lần nhưng lãi một lần. Phương án 3 mô tả chính xác nhất đặc điểm này.
Rủi ro tín dụng là rủi ro lớn nhất trong hoạt động ngân hàng tại Việt Nam, xuất phát từ khả năng khách hàng không trả được nợ hoặc trả nợ không đầy đủ và đúng hạn. Điều này ảnh hưởng trực tiếp đến nguồn vốn và lợi nhuận của ngân hàng. Các loại rủi ro khác như lãi suất, thanh khoản và hối đoái cũng quan trọng nhưng thường được quản lý chặt chẽ hơn và có quy mô ảnh hưởng nhỏ hơn so với rủi ro tín dụng trong bối cảnh hiện tại ở Việt Nam.