Quá trình phát triển tự nhiên của bệnh gồm 5 giai đoạn: 1. Khỏe; 2. Phơi nhiễm; 3. Tiền lâm sàng; 4. Lâm sàng; 5. Diễn biến tiếp tục. Dự phòng cấp một là can thiệp vào giai đoạn:
A.
1
B.
1 và 2
C.
2 và 3;
D.
2
Đáp án
Dự phòng cấp 1 nhằm mục đích ngăn ngừa bệnh tật xảy ra. Trong quá trình phát triển tự nhiên của bệnh, giai đoạn 1 (khỏe mạnh) và giai đoạn 2 (phơi nhiễm) là những giai đoạn mà dự phòng cấp 1 có thể can thiệp hiệu quả nhất. Ở giai đoạn khỏe mạnh, các biện pháp dự phòng tập trung vào việc duy trì sức khỏe và tăng cường sức đề kháng. Ở giai đoạn phơi nhiễm, các biện pháp dự phòng tập trung vào việc giảm thiểu nguy cơ tiếp xúc với các yếu tố gây bệnh. Do đó, đáp án đúng là can thiệp vào giai đoạn 1 và 2.
Dự phòng cấp 1 nhằm mục đích ngăn ngừa bệnh tật xảy ra. Trong quá trình phát triển tự nhiên của bệnh, giai đoạn 1 (khỏe mạnh) và giai đoạn 2 (phơi nhiễm) là những giai đoạn mà dự phòng cấp 1 có thể can thiệp hiệu quả nhất. Ở giai đoạn khỏe mạnh, các biện pháp dự phòng tập trung vào việc duy trì sức khỏe và tăng cường sức đề kháng. Ở giai đoạn phơi nhiễm, các biện pháp dự phòng tập trung vào việc giảm thiểu nguy cơ tiếp xúc với các yếu tố gây bệnh. Do đó, đáp án đúng là can thiệp vào giai đoạn 1 và 2.
Số hiện mắc (prevalence) là số lượng ca bệnh hiện có tại một thời điểm hoặc trong một khoảng thời gian nhất định trong một quần thể xác định. Để xác định số hiện mắc, cần tiến hành điều tra ngang (cross-sectional study), trong đó dữ liệu được thu thập tại một thời điểm duy nhất. Điều tra dọc (longitudinal study) theo dõi đối tượng theo thời gian và thường được sử dụng để xác định tỷ lệ mắc mới (incidence). Nghiên cứu bệnh chứng (case-control study) là một loại nghiên cứu hồi cứu, so sánh những người mắc bệnh với những người không mắc bệnh để xác định các yếu tố nguy cơ. Điều tra nửa dọc không phải là một thuật ngữ phổ biến trong dịch tễ học.
Tỷ lệ chết chung (thô) được tính bằng số người chết do mọi nguyên nhân trong một năm chia cho tổng dân số, sau đó nhân với một hệ số (thường là 1000 hoặc 100.000). Trong trường hợp này, có 100 người chết trên 100.000 dân. Vì vậy, tỷ lệ chết chung là 100/100.000.
Số hiện mắc và tỷ lệ hiện mắc là các chỉ số đo lường số lượng ca bệnh hoặc tình trạng sức khỏe hiện có tại một thời điểm hoặc trong một khoảng thời gian nhất định trong một quần thể. Để thu thập dữ liệu này, cần tiến hành điều tra ngang (cross-sectional study). Điều tra ngang cho phép đánh giá đồng thời sự hiện diện của bệnh hoặc tình trạng và các yếu tố liên quan tại một thời điểm. Điều tra dọc (longitudinal study) theo dõi một nhóm người theo thời gian, phù hợp hơn để xác định tỷ lệ mắc mới (incidence). Nghiên cứu bệnh chứng (case-control study) so sánh nhóm người mắc bệnh với nhóm người không mắc bệnh để tìm hiểu các yếu tố nguy cơ, không trực tiếp cung cấp thông tin về số hiện mắc hoặc tỷ lệ hiện mắc.
Tỷ lệ mới mắc (incidence rate) được tính bằng cách chia tỷ lệ hiện mắc (prevalence rate) cho thời gian mắc bệnh trung bình. Trong trường hợp này, tỷ lệ hiện mắc là 100/100,000 và thời gian mắc bệnh trung bình là 10 năm. Vậy, tỷ lệ mới mắc là (100/100,000) / 10 = 10/100,000.