Khí huyết trong các đường kinh thay đổi trong ngày. Từ 17 giờ đến 19 giờ:
A.
Giờ tuất (giờ của Tâm bào)
B.
Giờ hợi (giờ của Tam tiêu)
C.
Giờ dậu (giờ của Thận)
D.
Giờ tý (giờ của Đởm)
Đáp án
Đáp án đúng: C
Từ 17 giờ đến 19 giờ là giờ Dậu, thuộc kinh Thận. Các kinh mạch và khí huyết trong cơ thể có sự thay đổi theo thời gian trong ngày. Mỗi giờ tương ứng với một kinh cụ thể, và giờ Dậu (17h-19h) là thời điểm khí huyết tập trung ở kinh Thận, giúp thận hoạt động tốt hơn để lọc máu và duy trì sự cân bằng nước trong cơ thể.
Từ 17 giờ đến 19 giờ là giờ Dậu, thuộc kinh Thận. Các kinh mạch và khí huyết trong cơ thể có sự thay đổi theo thời gian trong ngày. Mỗi giờ tương ứng với một kinh cụ thể, và giờ Dậu (17h-19h) là thời điểm khí huyết tập trung ở kinh Thận, giúp thận hoạt động tốt hơn để lọc máu và duy trì sự cân bằng nước trong cơ thể.
Câu hỏi yêu cầu tìm vị thuốc *không* thuộc nhóm ôn hóa đàm hàn. Các vị thuốc ôn hóa đàm hàn có tác dụng làm ấm, làm tan đàm (đờm) có tính hàn (lạnh).
* Bán hạ: Là vị thuốc ôn táo, có tác dụng táo thấp hóa đàm, thường dùng để trị các chứng ho do đàm thấp. * Cát cánh: Có tác dụng tuyên phế, khứ đàm, lợi yết hầu, thường dùng trong các bài thuốc trị ho, viêm họng. * Bạch giới tử: (cùng tạo giác, thiên nam tinh) đều là các vị thuốc có tính ấm, có tác dụng hóa đàm, thường dùng trong các trường hợp đàm trệ, khó thở. * Phòng phong: Khu phong giải biểu, trừ thấp, chỉ thống, thường được dùng để trị các chứng bệnh do phong hàn thấp gây ra (như cảm mạo, đau nhức xương khớp). Nó không thuộc nhóm ôn hóa đàm hàn. Do đó, đây là đáp án đúng.
Vậy, đáp án đúng là Phòng phong vì nó không thuộc nhóm thuốc ôn hóa đàm hàn.
Trong liệt mặt ngoại biên, các cơ bị ảnh hưởng bao gồm cơ trán (nhăn trán, nhíu mày), cơ vòng mắt (nhắm mắt), cơ vòng miệng (mỉm cười, huýt sáo, thổi sáo, ngậm chặt miệng), cơ nâng môi trên (cười hở răng, nhếch môi), và cơ mũi (hỉnh mũi). Việc há miệng rộng không phải là một bài tập cơ mặt đặc hiệu trong liệt mặt ngoại biên, vì nó chủ yếu liên quan đến các cơ hàm.
Đau đầu do suy nhược thần kinh trong y học cổ truyền thường được xếp vào chứng Đầu thống. Đầu thống là một phạm trù bệnh chứng rộng, bao gồm nhiều nguyên nhân gây đau đầu khác nhau, trong đó có cả các trường hợp đau đầu do căng thẳng, mệt mỏi, suy nhược.
Trong y học cổ truyền, việc sử dụng các vị thuốc dẫn kinh là một phương pháp quan trọng để tăng cường tác dụng của bài thuốc vào các kinh mạch cụ thể. Bằng cách sao tẩm thuốc với các vị thuốc có tính quy kinh tương ứng, ta có thể hướng dẫn thuốc tác động mạnh mẽ hơn vào kinh mạch mong muốn, từ đó nâng cao hiệu quả điều trị. Do đó, câu nói "Muốn hướng cho thuốc vào kinh nào, thường ta dùng vị thuốc quy cùng với kinh đó để sao tẩm" là chính xác.