50 câu hỏi 60 phút
Do không xác định được hết các vấn đề mà luật so sánh sẽ nghiên cứu nên luật so sánh không có phương pháp nghiên cứu riêng biệt
Đúng
Sai
Tuy không xác định được hết các vấn đề mà luật so sánh sẽ nghiên cứu (do đối tượng nghiên cứu của Luật so sánh rất rộng và không có phạm vi ranh giới rõ ràng) nhưng không phải vì thế mà Luật so sánh không có các phương pháp nghiên cứu riêng biệt. Có thể kể ra các phương pháp nghiên cứu của Luật so sánh như: i) phương pháp so sánh lịch sử; (ii) phương pháp so sánh quy phạm (so sánh văn bản); và (iii) phương pháp so sánh chức năng.
50 câu hỏi 60 phút
45 câu hỏi 60 phút
50 câu hỏi 60 phút
22 câu hỏi 60 phút
50 câu hỏi 60 phút
50 câu hỏi 60 phút
50 câu hỏi 60 phút
50 câu hỏi 60 phút
50 câu hỏi 60 phút
50 câu hỏi 60 phút
Tuy không xác định được hết các vấn đề mà luật so sánh sẽ nghiên cứu (do đối tượng nghiên cứu của Luật so sánh rất rộng và không có phạm vi ranh giới rõ ràng) nhưng không phải vì thế mà Luật so sánh không có các phương pháp nghiên cứu riêng biệt. Có thể kể ra các phương pháp nghiên cứu của Luật so sánh như: i) phương pháp so sánh lịch sử; (ii) phương pháp so sánh quy phạm (so sánh văn bản); và (iii) phương pháp so sánh chức năng.
Theo Michael Bogdan thì 3 mục đích chính của Luật so sánh là: (i) tìm ra sự tương đồng và khác biệt giữa các hệ thống pháp luật đó; (ii) sử dụng những điểm tương đồng và khác biệt đã tìm ra nhằm giải thích nguồn gốc, đánh giá cách giải quyết trong các hệ thống pháp luật, phân nhóm các hệ thống pháp luật hoặc tìm ra các vấn đề cốt lõi, cơ bản của 1 hệ thống pháp luật; và (iii) Xử lý những vấn đề mang tính chất phương pháp nảy sinh trong quá trình so sánh luật, bao gồm cả những vấn đề khi nghiên cứu pháp luật nước ngoài. Như vậy, nghiên cứu pháp luật nước ngoài không phải là thành tố cơ bản của Luật so sánh mà chỉ là một trong các phương tiện để tiến hành một công trình so sánh. Tóm lại, thành tố cơ bản của Luật so sánh khi tiến hành một công trình so sánh cụ thể chính là việc so sánh các đối tượng thông qua các so sánh tính của chúng (tính có khả năng so sánh giữa các đối tượng) chứ không phải là việc nghiên cứu pháp luật của một nước (việc nghiên cứu là để nhằm phục vụ cho việc so sánh mà thôi).
Hiện trên thế giới vẫn đang tồn tại các tên gọi môn học khác nhau: “luật so sánh – Comparative Law”, “luật học so sánh – Comparative Jurisprudence” trong tiếng Anh; hay “so sánh luật – Rechtsvergleichung” trong tiếng Đức… Tuy nhiên, thuật ngữ chính thức sử dụng đặt tên cho môn học này tại hai trường đại học luật lớn nhất tại VN là ĐH Luật Hà Nội và ĐH Luật Tp.HCM đều là “Luật so sánh” (tiếng Anh là Comparative Law và tiếng Pháp là Droit Comparé). Theo Michael Bogdan thì thuật ngữ “luật so sánh” đã được hình thành từ rất lâu trong lịch sử và nó đã và đang được sử dụng một cách hợp pháp trong các tài liệu để chỉ tên các khoa học.
Theo Michael Bogdan thì thuật ngữ Luật so sánh rất có thể sẽ gây hiểu lầm như khi ta thay “lịch sử pháp luật” bằng “luật lịch sử” hoặc thay “XH học pháp luật” bằng “luật xã hội” chẳng hạn. Hơn nữa thuật ngữ Luật so sánh còn tạo ra sự nhầm lẫn môn học này như một ngành luật vì nó đem đến sự hoài nghi về sự tồn tại của một ngành luật mới – ngành luật so sánh – bên cạnh sự tồn tại của các ngành luật khác như luật hình sự, luật dân sự, luật HNGĐ… Tuy nhiên thuật ngữ “luật so sánh” đã được hình thành từ rất lâu trong lịch sử và nó đã và đang được sử dụng một cách hợp pháp trong các tài liệu để chỉ tên các khoa học. Xưa nay trên thế giới môn học này vẫn được đặt tên là “luật so sánh” (tiếng Anh: Comparative Law; tiếng Pháp: Droit Comparé; tiếng Đức: Rechtsvergleichung). Tại VN, thuật ngữ chính thức sử dụng đặt tên cho môn học này tại hai trường đại học luật lớn nhất tại VN là ĐH Luật Hà Nội và ĐH Luật Tp.HCM đều là “Luật so sánh” (tên môn thi này là một dẫn chứng).
Mục đích của nghiên cứu pháp luật và của so sánh pháp luật là hoàn toàn khác nhau. Mục đíchà của nghiên cứu pháp luật đơn thuần chỉ là tìm hiểu về nó trong khi mục đích của so sánh pháp luật là sử dụng chính những kết quả nghiên cứu pháp luật để: (i) tìm ra sự tương đồng và khác biệt giữa các hệ thống pháp luật đó; (ii) sử dụng những điểm tương đồng và khác biệt đã tìm ra nhằm giải thích nguồn gốc, đánh giá cách giải quyết trong các hệ thống pháp luật, phân nhóm các hệ thống pháp luật hoặc tìm ra các vấn đề cốt lõi, cơ bản của 1 hệ thống pháp luật; và (iii) Xử lý những vấn đề mang tính chất phương pháp nảy sinh trong quá trình so sánh luật, bao gồm cả những vấn đề khi nghiên cứu pháp luật nước ngoài (Michael Bogdan).