28 câu hỏi 60 phút
Một bình xịt tưới cây như hình bên. Sau khi rót nước vào bình, ta vặn nắp bình cho kín. Dùng tay kéo và đẩy pit tông lên xuống để nén không khí vào trong bình. Nhấn van xả nước để khí trong bình đẩy nước ra ngoài qua vòi xịt.
Một bạn học sinh dùng xịt này để tưới cây. Nếu bạn muốn nước xịt ra được mạnh hơn nhưng không điều chỉnh vòi xịt thì bạn cần
rót nước vào đầy bình, dùng tay kéo và đẩy pit tông liên tục và nhiều lần hơn. Sau đó nhấn van xả nước để nước được xịt ra ngoài
rót nước vào khoảng hai phần ba bình, lắc đều bình và nhấn van xả nước liên tục để nước được xịt ra ngoài
rót nước vào đầy bình và nhấn giữ van xả nước, dùng tay kéo và đẩy pit tông di chuyển đều để nước được xịt ra ngoài
rót nước vào khoảng hai phần ba bình, dùng tay kéo và đẩy pit tông liên tục nhiều lần hơn. Sau đó nhấn van xả nước để nước được xịt ra ngoài
Để nước xịt ra mạnh hơn cần tạo áp suất khí trong bình lớn hơn.
Ở nhận định D, rót nước vào khoảng hai phần ba bình tạo không gian trống để khi thực hiện kéo và đẩy pit tông nhiều lần, đưa không khí vào bình càng nhiều và tạo áp suất khí càng lớn. Khi nhấn van xả nước, nước được đẩy ra ngoài càng mạnh.
Ở nhận định A, rót nước vào đầy bình nên rất khó có thể đẩy pit tông xuống để nén khí. Khí đó, nhấn van xả nước thì áp suất trong bình không thể để đẩy nước ra ngoài.
Ở nhận định B, khi rót nước vào khoảng hai phần ba bình và lắc đều bình thì áp suất trong bình cũng không thay đổi đáng kể. Nên khi nhấn van xả nước thì áp suất trong bình không thể để đẩy nước ra ngoài.
Ở nhận định C, khi nhấn giữa van xả nước và dùng tay kéo và đẩy pit tông di chuyển đều thì nước vẫn được đẩy ra ngoài nhưng rất yếu.
Để nước xịt ra mạnh hơn cần tạo áp suất khí trong bình lớn hơn.
Ở nhận định D, rót nước vào khoảng hai phần ba bình tạo không gian trống để khi thực hiện kéo và đẩy pit tông nhiều lần, đưa không khí vào bình càng nhiều và tạo áp suất khí càng lớn. Khi nhấn van xả nước, nước được đẩy ra ngoài càng mạnh.
Ở nhận định A, rót nước vào đầy bình nên rất khó có thể đẩy pit tông xuống để nén khí. Khí đó, nhấn van xả nước thì áp suất trong bình không thể để đẩy nước ra ngoài.
Ở nhận định B, khi rót nước vào khoảng hai phần ba bình và lắc đều bình thì áp suất trong bình cũng không thay đổi đáng kể. Nên khi nhấn van xả nước thì áp suất trong bình không thể để đẩy nước ra ngoài.
Ở nhận định C, khi nhấn giữa van xả nước và dùng tay kéo và đẩy pit tông di chuyển đều thì nước vẫn được đẩy ra ngoài nhưng rất yếu.
Trong quá trình làm nóng khối khí, pit tông không dịch chuyển. Khối khí nhận nhiệt lượng và không sinh công nên độ biến thiên nội năng của khối khí là \(U=Q\) (với \(Q>0\)). Nội năng của khối khí tăng.
Trong quá trình này thể tích khối khí không đổi, nhiệt độ tăng nên áp suất tăng. Khi đó, lực của khối khí tác dụng lên pit tông tăng, nhưng nhỏ hơn trọng lực của pit tông nên pit tông vẫn không bị dịch chuyển.
Phần nhiệt năng khối khí nhận vào từ đèn cồn được gọi là nhiệt lượng. Nhiệt lượng khối khí nhận vào nhỏ hơn nhiệt lượng đèn cồn tỏa ra (vì đèn cồn có truyền nhiệt năng ra môi trường).
Vậy nhận định A sai; nhận định B sai; nhận định C sai; nhận định D đúng.
Từ đồ thị ta thấy, nhiệt lượng cần cung cấp để hóa lỏng hoàn toàn khối nước đá ở 0 oC là:
\(\frac{{{250.10}^{3}}}{10}.5=125~000\) (J)
Khối lượng khối nước đá là:
\(Q=.m\) \(m=\frac{Q}{{}}=\frac{125000}{3,{{34.10}^{5}}}\approx 0,37\) kg.
Thể tích ethylic acohol: \({{V}_{ethylic~acohol}}=\frac{S.{{V}_{ru~ethylic}}}{100}=\frac{{{20.750.10}^{-6}}}{100}={{15.10}^{-5}}\) m3.
Thể tích nước: \({{V}_{nc}}={{V}_{ru~ethylic}}-{{V}_{ethylic~acohol}}={{750.10}^{-6}}-{{15.10}^{-5}}={{60.10}^{-5}}\) m3.
Khối lượng ethylic acohol: \({{m}_{e}}={{D}_{e}}.{{V}_{ethylic~acohol}}={{789.15.10}^{-5}}=0,11835\) kg.
Khối lượng nước: \({{m}_{n}}={{D}_{n}}.{{V}_{nc}}={{997.60.10}^{-5}}=0,5982\) kg.
Kể từ thời điểm nhiệt độ của rượu vừa đạt 78 °C, nhiệt độ cung cấp để ethylic acohol hóa hơi hoàn toàn, nước tăng nhiệt độ tới 100 °C và nước hóa hơi hoàn toàn, nên ta có:
\(Q={{L}_{e}}.{{m}_{e}}+{{m}_{n}}.{{c}_{n}}.T+{{L}_{n}}.{{m}_{n}}\)
\(Q=0,{{9.10}^{6}}.0,11835+0,5982.4200.\left( 100-78 \right)+2,{{3.10}^{6}}.0,5982\)
\(Q\approx 1~537~649\) J \(\approx 1~538\) kJ.
Trong quá trình đẳng nhiệt, áp suất và thể tích của khối khí tỉ lệ nghịch với nhau (định luật Boyle). Khi đó ta có:
\({{p}_{1}}.{{V}_{1}}={{p}_{2}}.{{V}_{2}}\) Û \({{p}_{1}}.\left( {{V}_{2}}+0,4 \right)=1,2.{{p}_{1}}.{{V}_{2}}\)
\({{V}_{2}}+0,4=1,2.{{V}_{2}}\)
\({{V}_{2}}=2\) lít.
Phóng xạ là quá trình hạt nhân
Một bạn học sinh dùng ấm điện có công suất điện không thay đổi để đun hỗn hợp gồm nước và nước đá có nhiệt độ 0 °C, có khối lượng là 2 kg. Khảo sát sự thay đổi nhiệt độ của hỗn hợp nước và nước đá theo nhiệt lượng mà ấm điện cung cấp, thu được đồ thị như hình bên dưới. Bạn đo được khoảng thời gian từ thời điểm bắt đầu đun đến khi nhiệt độ của hỗn hợp bắt đầu tăng lên là 67 giây. Bỏ qua sự truyền nhiệt ra môi trường và ấm; bỏ qua sự bay hơi của nước trong quá trình đun. Biết nhiệt nóng chảy riêng của nước đá là 3,34.105 J/kg và nhiệt dung riêng của nước và nước đá lần lượt là 4200 J/(kg.K) và 2100 J/(kg.K).
Khối lượng nước có trong hỗn hợp ban đầu là 0,2 kg
Công suất của ấm điện xấp xỉ bằng 1 000 W
Kể từ thời điểm bắt đầu đun, sau khoảng 13 phút thì nước trong ấm điện bắt đầu sôi
Tại thời điểm nước bắt đầu sôi, bạn học sinh ngắt điện và bỏ thêm vào ấm 250 g nước đá ở - 5 °Nhiệt độ của hỗn hợp khi có sự cân bằng nhiệt xảy ra xấp xỉ bằng 80 °
Một học sinh làm thí nghiệm kiểm tra định luật Charles đối với khối khí lí tưởng chứa trong xi lanh có pit tông đậy kín và di chuyển được như hình bên. Với các dụng cụ gồm:
+ Áp kế (1) có mức 0 ứng với áp suất khí quyển, đơn vị đo của áp kế là Bar (1 Bar = 105 Pa).
+ Xi lanh (2).
+ Pit tông (3) gắn với tay quay (4).
+ Hộp chứa nước nóng (5).
+ Cảm biến nhiệt độ (6).
Bạn học sinh tiến hành thí nghiệm theo các bước sau:
+ Đọc giá trị phần thể tích chứa khí của xi lanh ban đầu (\({{\text{V}}_{0}}=70\) mℓ).
+ Đọc số chỉ của cảm biến nhiệt độ đo nhiệt độ khí trong xi lanh ban đầu (\({{\text{t}}_{0}}=26\text{ }\!\!~\!\!\text{ }\)).
+ Đổ nước nóng vào hộp chứa cho ngập hoàn toàn xi lanh. Quay tay quay để pit tông dịch chuyển từ từ sao cho số chỉ của áp kế không đổi (\({{\text{p}}_{0}}={{10}^{5}}\) Pa). Đọc giá trị của phần thể tích chứa khí và nhiệt độ sau mỗi phút.
Bạn học sinh thu được bảng giá trị sau:
Định luật Charles được phát biểu như sau: “Với một khối lượng khí xác định, khi giữ ở áp suất không đổi thì thể tích của khí tỉ lệ thuận với nhiệt độ tuyệt đối của nó”
Lượng khí lí tưởng chứa trong xi lanh có số mol xấp xỉ bằng 2,8 mol
Tỉ số \(\frac{\text{V}}{\text{T}}\) luôn không đổi và xấp xỉ bằng 0,235.10-6 \(\frac{{{\text{m}}^{3}}}{\text{K}}\)
Đồ thị biểu diễn mối liên hệ giữa nhiệt độ tuyệt đối và thể tích của khối khí trên như hình vẽ sau:
Một khung dây dẫn cứng, phẳng gồm 100 vòng, mỗi vòng có diện tích 12 cm2 và điện trở mỗi vòng là 0,01 W. Khung dây dẫn được đặt trong từ trường đều có vector cảm ứng từ \(\text{\vec{B}}\) vuông góc với mặt phẳng khung dây và độ lớn cảm ứng từ biến thiên theo thời gian có đồ thị như hình vẽ.
Độ biến thiên từ thông qua khung dây dẫn trong khoảng thời gian từ \({{\text{t}}_{1}}=0\) s đến \({{\text{t}}_{2}}=0,5\) s là 0,3 Wb
Suất điện động cảm ứng xuất hiện trong khung dây dẫn trong khoảng thời gian từ \({{\text{t}}_{1}}=0\) s đến \({{\text{t}}_{2}}=0,5\) s có độ lớn xấp xỉ bằng 0,6 mV
Dòng điện cảm ứng chạy trong khung dây dẫn có chiều cùng chiều quay của kim đồng hồ và có cường độ bằng 0,6 mA
Từ thông xuyên qua tiết diện khung dây dẫn đạt giá trị 0,12 mWb tại thời điểm \({{\text{t}}_{3}}=0,3\) s
Trong hình bên, bệnh nhân được đo chức năng thông khí phổi bằng phương pháp xạ hình phổi. Xạ hình phổi là phương pháp sử dụng một số đồng vị phóng xạ dạng khí hoặc hợp chất đánh dấu phóng xạ ở dạng khí dung aerosol có kích thước hạt 0,1 - 0,5 μm. Sau khi cho người bệnh hít khí dung phóng xạ, thuốc phóng xạ vào phổi, đi vào phế nang và lắng đọng ở đó với thời gian đủ dài để có thể ghi hình thông khí phổi theo nhiều hướng. Dựa vào đó giúp bác sĩ đánh giá thông khí phổi từng vùng và chẩn đoán một số bệnh về phổi.
Đồng vị phóng xạ xenon \({}_{54}^{133}\text{Xe}\) được sử dụng phổ biến trong xạ hình phổi. Xenon \({}_{54}^{133}\text{Xe}\) là chất phóng xạ \(^{{}}\) có chu kì bán rã là 5,24 ngày đêm. Một bệnh nhân được chỉ định sử dụng liều xenon có độ phóng xạ 3,18.108 Bq. Coi rằng 85% lượng xenon trong liều đó lắng đọng tại phổi. Bệnh nhân được chụp ảnh phổi lần thứ nhất ngay sau khi hít khí và lần thứ hai ngay sau đó 2 giờ. Biết khối lượng nguyên tử xenon là 133 amu.
Hạt \(^{{}}\) được định hướng cho bay vào trong điện trường đều giữa hai bản kim loại phẳng song song, cách nhau một khoảng a = 10 cm, dài 20 cm, hiệu điện thế giữa hai bản là 10 V với vận tốc ban đầu \({{\text{v}}_{0}}={{2.10}^{6}}\) m/s, theo phương song song với hai bản và gần sát bản âm. Bỏ qua trọng lực và các loại lực cản tác dụng lên hạt \(^{{}}\). Biết hạt \(^{{}}\) có điện tích là - 1,6.10-19 C và khối lượng là 9,1.10-31 kg.
Hằng số phóng xạ của \({}_{54}^{133}\text{Xe}\) là 0,132 s-1
Khối lượng \({}_{54}^{133}\text{Xe}\) có trong liều mà bệnh nhân đã hít vào xấp xỉ bằng 0,046 m
Ở lần chụp thứ hai, lượng \({}_{54}^{133}\text{Xe}\) đã lắng đọng tại phổi có độ phóng xạ xấp xỉ bằng 3,15.108 Ci
Tốc độ của hạt \(^{{}}\) khi đến bản dương xấp xỉ bằng 2,74.106 m/s