28 câu hỏi 60 phút
Hiện tượng nào sau đây là sự chuyển thể từ thể lỏng sang thể khí?
Nước đá tan thành nước
Nước bay hơi khi phơi quần áo
Sương đọng trên lá cây vào buổi sáng
Sự tạo thành tuyết
Phương án A – SAI: Nước đá (thể rắn) tan thành nước (thể lỏng) do nhiệt độ của môi trường.
Phương án B – ĐÚNG: Nước (thể lỏng) chuyển hóa thành hơi nước (thể khí) dưới nhiệt độ của ánh nắng Mặt Trời.
Phương án C – SAI: Hơi nước trong không khí (thể khí) chuyển hóa thành giọt sương (thể lỏng) dưới nhiệt độ thấp của môi trường lúc ban đêm.
Phương án D – SAI: Hơi nước (thể khí) chuyển hóa thành giọt nước (thể lỏng), giọt nước chuyển hóa thành tuyết (thể rắn) dưới nhiệt độ thấp của môi trường.
Phương án A – SAI: Nước đá (thể rắn) tan thành nước (thể lỏng) do nhiệt độ của môi trường.
Phương án B – ĐÚNG: Nước (thể lỏng) chuyển hóa thành hơi nước (thể khí) dưới nhiệt độ của ánh nắng Mặt Trời.
Phương án C – SAI: Hơi nước trong không khí (thể khí) chuyển hóa thành giọt sương (thể lỏng) dưới nhiệt độ thấp của môi trường lúc ban đêm.
Phương án D – SAI: Hơi nước (thể khí) chuyển hóa thành giọt nước (thể lỏng), giọt nước chuyển hóa thành tuyết (thể rắn) dưới nhiệt độ thấp của môi trường.
Ống dẫn nhiệt hoạt động nhờ quá trình chất lỏng bay hơi ở đầu nóng, hơi chuyển động sang đầu lạnh, sau đó ngưng tụ lại thành chất lỏng và trở về đầu nóng nhờ mao dẫn.
Nhiệt lượng tỏa ra của CPU trong 1 phút: \(\text{Q}=\text{P}.\text{t}=\text{m}.\text{c}.\text{t}\)
\(\text{t}=\dfrac{\text{P}.\text{t}}{\text{m}.\text{c}}=\dfrac{65\times 60}{{{10.10}^{-3}}\times 4200}\approx 93\text{ }\!\!~\!\!\text{ K}\)
Nhiệt độ tăng lên 93 K tương ứng tăng \(93.\)
Các nguyên tắc an toàn phòng xạ:
- Giữ khoảng cách đủ xa đối với nguồn phóng xạ.
- Cần sử dụng các tấm chắn nguồn phóng xạ đủ tốt.
- Cần giảm thiểu thời gian phơi nhiễm phóng xạ.
Nội năng của một vật là
Nội năng của một vật là tổng động năng và thế năng của các phân tử cấu tạo nên vật.
Máy bay là phương tiện di chuyển phổ biến hiện nay, giúp con người tiết kiệm thời gian di chuyển giữa các địa điểm. Để đảm bảo sức khỏe cho hành khách, các máy bay thường được trang bị hệ thống điều áp giúp duy trì áp suất trong khoang ở mức an toàn (72 kPa – 100 kPa). Một máy bay đang bay ở độ cao 10 km so với mặt đất, nơi áp suất khí quyển là 22 kPa. Hệ thống điều áp duy trì áp suất không khí trong khoang máy bay ở mức 75 kPa. Khoang máy bay có thể tích 500 m³, nhiệt độ không khí trong khoang là 20°C. Coi không khí trong khoang là khí lý tưởng, biết khối lượng mol trung bình của không khí là 29 g/mol
Khi máy bay hạ cánh, áp suất trong và ngoài chênh lệch ngày càng lớn hơn
Tại độ cao 10 km, áp suất trong khoang cao hơn áp suất bên ngoài nên không khí sẽ có xu hướng thoát ra ngoài nếu khoang bị hở
Khối lượng không khí trong khoang xấp xỉ bằng 447 kg
Với một khối khí xác định trong khoang máy bay (thể tích không đổi), khi nhiệt độ trong khoang tăng lên đến 40°C, áp suất trong khoang sẽ giảm
Một học sinh sử dụng mô hình như hình vẽ để nghiên cứu mối liên hệ giữa các thông số trạng thái của khí lý tưởng. Mô hình gồm một bình kín hình hộp chữ nhật có thể tích không đổi, được gắn cảm biến nhiệt độ, áp kế đo áp suất, thước đo kích thước hình hộp và ống bơm khí. Trong quá trình thí nghiệm, học sinh bơm khí vào bình và ghi nhận các đại lượng. Biết khối lượng mol trung bình của không khí là 29 g/mol.
Nhiệt độ hiển thị trên cảm biến là nhiệt độ tuyệt đối của khí bên trong bình
Có thể sử dụng các số đo từ thí nghiệm để tính khối lượng khí có trong bình
Nếu tiếp tục bơm khí vào bình, áp suất trong bình sẽ tăng
Trong quá trình thực hiện thí nghiệm, nếu có ánh nắng chiếu trực tiếp thì kết quả vẫn không bị ảnh hưởng
Hai cuộn dây dẫn (1) và (2) được đặt gần nhau như hình vẽ. Cuộn (1) nối với nguồn điện không đổi, cuộn (2) nối với điện kế nhạy. Ban đầu không có dòng điện trong cuộn (1), kim điện kế đứng yên.
Nếu đóng khóa K, kim điện kế sẽ lệch liên tục về một phía
Nếu ta đóng ngắt khóa K liên tục thì kim điện kế sẽ bị lệch khỏi vị trí 0
Nếu ta kéo giãn hoặc bóp bẹp cuộn (2) thì kim điện kế sẽ bị lệch khỏi vị trí 0
Nếu ta xoay cuộn (1) quanh trục thẳng đứng như hình, thì kim điện kế vẫn không bị lệch
Trong nghiên cứu thủy văn, các nhà khoa học thường sử dụng đồng vị phóng xạ Triti để nghiên cứu chuyển động của nước ngầm. Họ bơm một lượng nhỏ triti vào nguồn nước như giếng hoặc sông, sau đó định kỳ lấy mẫu ở các vị trí khác nhau để đo nồng độ triti. Dựa vào sự thay đổi nồng độ triti theo thời gian, người ta có thể xác định hướng chảy, tốc độ và tuổi của nước ngầm. Triti là một đồng vị phóng xạ của hydro, phát ra bức xạ beta yếu và có chu kỳ bán rã khoảng 12,3 năm. Giả sử ban đầu người ta đưa vào mạch nước một lượng 1,00 mg Triti tinh khiết tại một điểm A đã được đánh dấu
Sau thời gian 24,6 năm, khối lượng triti hòa tan ban đầu chỉ còn lại 0,25 mg
Triti không gây nguy hiểm cho con người vì bức xạ Beta từ Triti không thể xuyên qua da
Khoảng thời gian để độ phóng xạ của Triti bằng 20% so với độ phóng xạ ban đầu là 20 năm
Sau một khoảng thời gian, tại điểm B nằm cách A một khoảng 360m, họ phát hiện được lượng Triti còn lại trong mẫu nước là 0,50 mg. Xem như hiện tượng khuếch tán của Triti trong nước không đáng kể, tốc độ chảy của dòng nước ngầm này xấp xỉ gần bằng 29,3 m/năm