28 câu hỏi 60 phút
Hình ảnh sau đây mô tả cấu trúc của màng sinh chất.

Nước chủ yếu được vận chuyển qua thành phần nào sau đây?
Protein xoắn α
Lớp kép phospholipid
Kênh protein
Protein xuyên màng
Nước đi vào tế bào chủ yếu qua kênh protein đặc biệt được gọi là aquaporin. Mặc dù nước có thể đi qua lớp phospholipid kép của màng tế bào, nhưng quá trình này diễn ra rất chậm vì lớp phospholipid có bản chất là lipid nên có tính chất kị nước. Các kênh protein sẽ cho phép nước đi qua màng tế bào một cách nhanh hơn và không tiêu tốn năng lượng.
Nước đi vào tế bào chủ yếu qua kênh protein đặc biệt được gọi là aquaporin. Mặc dù nước có thể đi qua lớp phospholipid kép của màng tế bào, nhưng quá trình này diễn ra rất chậm vì lớp phospholipid có bản chất là lipid nên có tính chất kị nước. Các kênh protein sẽ cho phép nước đi qua màng tế bào một cách nhanh hơn và không tiêu tốn năng lượng.
Màng tế bào có bản chất là lipid, vì vậy ở nhiệt độ thấp sẽ khiến các phân tử phospholipid được sắp xếp sát lại với nhau, bó chặt lại và trở nên rắn chắc hơn. Khi đó tính thấm của màng sẽ giảm, các enzyme trong màng có thể bị bất hoạt. Để hạn chế tình trạng này, các steroid sẽ được chèn vào giữa các phân tử phospholipid để ngăn không có các phân tử phospholipid dính chặt vào nhau, giúp tăng tính “lỏng” của màng. Ở người và động vật, loại steroid đó là các phân tử cholesterol.
Ngành Sinh học tập trung vào nghiên cứu sự sống cũng như mối quan hệ giữa các cá thể sống với nhau và với môi trường. Các vấn đề như bùng nổ dân số, bảo vệ đa dạng sinh học, và ô nhiễm môi trường đều có liên quan mật thiết đến các hệ sinh thái, sức khỏe con người, và sự tồn tại của các loài sinh vật.
Trong khi đó, bình đẳng xã hội là một vấn đề thuộc lĩnh vực xã hội học, liên quan đến các yếu tố như kinh tế, chính trị và văn hóa, không trực tiếp thuộc lĩnh vực nghiên cứu của ngành Sinh học.
Pháp y là ngành nghề ứng dụng các kĩ thuật sinh học phân tử (xét nghiệm DNA, phân tích trình tự gene, dấu vân tay,…) để xác định quan hệ huyết thống, xác định thân phận của các nạn nhân, khám nghiệm tử thi, điều tra vụ án.
Y học là ngành nghề ứng dụng các hiểu biết về sinh học cơ thể con người và sinh vật để bảo vệ và nâng cao sức khỏe con người.
Dược học là ngành nghề ứng dụng các hiểu biết về sinh học các loài sinh vật để điều chế các sản phẩm, các phương pháp giúp phòng và điều trị bệnh.
Hệ cơ quan: Là tập hợp các cơ quan trong cơ thể, phối hợp hoạt động để thực hiện một chức năng chung. Ví dụ như hệ hô hấp (phổi, khí quản, phế quản,…) có chức năng trao đổi khí, hệ bài tiết (thận, bàng quang, da,…) có chức năng loại bỏ chất thải, hệ miễn dịch (hạch bạch huyết, tủy, lách, tuyến ức,…).
Hệ vi sinh vật: Là tập hợp các vi sinh vật (vi khuẩn, nấm, virus,...) sống cộng sinh trên hoặc trong cơ thể, đặc biệt là trong đường ruột. Chúng có vai trò quan trọng trong tiêu hóa, miễn dịch và nhiều quá trình sinh lý khác. Tuy nhiên, chúng không được cấu tạo từ các cơ quan và không được coi là một hệ cơ quan theo định nghĩa sinh học mà có thể coi đây là một quần xã vi sinh vật.
Thành tế bào của sinh vật nhân thực và thành tế bào của sinh vật nhân sơ đều có điểm chung là:
Trong PCR (một kĩ thuật được sử dụng phổ biến trong sinh học phân tử, gồm một chu kì biến thiên nhiệt độ lặp lại nhiều lần, giúp DNA nhân đôi liên tục để tạo ra nhiều bản sao), người ta sử dụng nhiệt độ cao lên đến 94 - 98 oC để tách hai mạch phân tử DNA, sau đó dùng enzyme DNA polymerase để tổng hợp mạch mới. Tuy nhiên khi nhiệt độ tăng lên đến 50 oC thì các enzyme DNA polymerase của người lại không hoạt động được. Trong khi đó một số vi khuẩn sống ở vùng gần miệng núi lửa có nhiệt độ lên đến hơn 100 oC vẫn có khả năng sống sót và nhân đôi DNA bình thường. Biết rằng sau mỗi chu kì nhân đôi DNA, 1 phân tử DNA chỉ cho ra 2 phân tử DNA mới
Hai mạch phân tử DNA liên kết với nhau bởi liên kết peptide
Nội dung thông tin cho thấy protein có chức năng vận động
Protein có nhiệt độ biến tính thấp hơn nucleic acid
Sử dụng enzyme DNA polymerase của vi khuẩn trong kĩ thuật PCR thì sẽ tạo ra được nhiều DNA hơn sau mỗi chu kì
Cho một số mẫu tế bào động vật và tế bào thực vật vào ba môi trường khác nhau có chứa nồng độ dung dịch muối như sau:
- Môi trường 1: Dung dịch muối NaCl nồng độ 0,9%.
- Môi trường 2: Dung dịch muối NaCl nồng độ 0,05%.
- Môi trường 3: Dung dịch muối NaCl nồng độ 9%.
Biết rằng khi quan sát tế bào ở môi trường 1 thì hình dạng tế bào động vật và tế bào thực vật không có sự thay đổi
Đối với tế bào động vật, dung dịch 1 là ưu trương, 3 là nhược trương
Trong môi trường nhược trương, chỉ có tế bào động vật bị vỡ, còn tế bào thực vật thì không
Các ion Na+ và Cl- khuếch tán qua màng tế bào là nguyên nhân dẫn tới hiện tượng co nguyên sinh
Khi cơ thể bị mất nước (như bị ốm, sốt cao, tiêu chảy,…), nên pha nước muối theo tỉ lệ 9 g muối/1 L nước để uống sẽ có tác dụng tốt hơn uống nước thông thường
Tại ống thận, nồng độ glucose trong nước tiểu thấp hơn trong máu nhưng vẫn được các tế bào thận hấp thụ và đưa lại về máu. Quá trình này đảm bảo rằng glucose, một nguồn năng lượng quan trọng cho cơ thể, không bị mất đi qua nước tiểu
Quá trình trên tiêu tốn năng lượng của tế bào
Quá trình trên được thực hiện nhờ cơ chế thẩm thấu
Nếu kết quả phân tích nước tiểu phát hiện glucose thì có khả năng người đó bị tiểu đường
Nồng độ glucose trong máu quá cao và không được kiểm soát trong thời gian dài có thể dẫn tới suy thận
Các cấp độ tổ chức tạo nên hệ tiêu hóa trong cơ thể người từ nhỏ đến lớn gồm có: (1) Các nguyên tử C, H, O, N,… ⭢ (2) Carbohydrate, protein, nucleic acid,… ⭢ (3) Nhân, ti thể, màng sinh chất,… ⭢ (4) Tế bào biểu mô ruột ⭢ (5) Biểu mô ruột ⭢ (6) Ruột non ⭢ (7) Hệ tiêu hóa ⭢ (8) Cơ thể
Cấp độ số 3 là được gọi là cơ quan
Cấp độ số 5 được gọi là mô
Chức năng hấp thụ dinh dưỡng có ở cấp độ 4
Tế bào chỉ hấp thụ được chất dinh dưỡng được phân giải đến cấp độ 1