“Lloyd’s – London” ngày nay là danh từ dùng để chỉ:
Trả lời:
Đáp án đúng: C
“Lloyd’s – London” (thường được gọi tắt là Lloyd’s) không phải là một công ty bảo hiểm theo nghĩa thông thường, mà là một thị trường bảo hiểm độc đáo và lâu đời. Thị trường này bao gồm nhiều thành viên (gọi là "Names" hoặc các tập đoàn) được tổ chức thành các Syndicate. Mỗi Syndicate hoạt động như một đơn vị bảo hiểm riêng biệt, chịu trách nhiệm về các hợp đồng bảo hiểm mà họ cam kết. Lloyd's nổi tiếng với việc cung cấp các loại hình bảo hiểm chuyên biệt và rủi ro cao, từ bảo hiểm hàng hải, hàng không đến các rủi ro chính trị, thiên tai và các tài sản độc đáo. Lịch sử của Lloyd's bắt nguồn từ quán cà phê của Edward Lloyd vào thế kỷ 17, nơi các chủ tàu, thương nhân và người bảo hiểm tụ tập. Do đó:
* **Phương án 1 (Một công ty bảo hiểm danh tiếng của Anh Quốc):** Sai. Lloyd's là một thị trường, không phải một công ty bảo hiểm duy nhất.
* **Phương án 2 (Một quán cafe nổi tiếng của Anh Quốc):** Sai. Mặc dù có nguồn gốc từ một quán cà phê, nhưng hiện tại Lloyd's là một thị trường bảo hiểm.
* **Phương án 3 (Một thị trường bảo hiểm bao gồm nhiều thể nhân và pháp nhân người bảo hiểm):** Đúng. Đây là định nghĩa chính xác về Lloyd's of London ngày nay, nơi các Syndicate (gồm cả cá nhân và tập đoàn) cùng nhau cung cấp dịch vụ bảo hiểm và tái bảo hiểm.
* **Phương án 4 (Trụ sở của một tờ báo nổi tiếng trong lĩnh vực hàng hải):** Sai. Mặc dù có các ấn phẩm liên quan đến hàng hải như Lloyd's List, nhưng bản thân Lloyd's không phải là trụ sở của một tờ báo mà là một thị trường bảo hiểm.
Câu hỏi liên quan
Lời giải:
Đáp án đúng: D
Để xác định độ lệch chuẩn của những tổn thất thực tế so với mức trung bình, chúng ta cần thực hiện các bước sau:
Bước 1: Xác định biến ngẫu nhiên và các giá trị có thể.
Gọi X là biến ngẫu nhiên biểu thị tổn thất thực tế.
Có hai trường hợp xảy ra:
1. Rủi ro xảy ra: Tổn thất là hoàn toàn, tức là 6 tỷ đồng. Xác suất là P(X = 6 tỷ) = 17% = 0.17.
2. Rủi ro không xảy ra: Tổn thất là 0 đồng. Xác suất là P(X = 0 tỷ) = 1 - 0.17 = 0.83.
Bước 2: Tính giá trị kỳ vọng (mức trung bình) của tổn thất, E(X).
E(X) = (Giá trị tổn thất khi rủi ro xảy ra * Xác suất rủi ro) + (Giá trị tổn thất khi rủi ro không xảy ra * Xác suất không rủi ro)
E(X) = (6.000.000.000 VNĐ * 0.17) + (0 VNĐ * 0.83)
E(X) = 1.020.000.000 VNĐ
E(X) = 1.020 triệu đồng.
(Giá trị này trùng với phương án B, nhưng đây là mức trung bình, không phải độ lệch chuẩn).
Bước 3: Tính phương sai của tổn thất, Var(X).
Phương sai đo lường mức độ phân tán của dữ liệu so với giá trị trung bình. Đối với biến ngẫu nhiên chỉ có hai kết quả, công thức phương sai có thể dùng là:
Var(X) = E(X^2) - [E(X)]^2
Hoặc có thể dùng công thức cho phân phối Bernoulli tổng quát:
Var(X) = p * (1-p) * (a - b)^2
Trong đó: a là giá trị khi thành công (tổn thất xảy ra), b là giá trị khi thất bại (tổn thất không xảy ra), p là xác suất thành công.
Áp dụng công thức thứ hai:
Var(X) = 0.17 * (1 - 0.17) * (6.000.000.000 - 0)^2
Var(X) = 0.17 * 0.83 * (6.000.000.000)^2
Var(X) = 0.1411 * 36.000.000.000.000.000.000
Var(X) = 5.079.600.000.000.000.000 VNĐ^2
Bước 4: Tính độ lệch chuẩn của tổn thất, SD(X).
Độ lệch chuẩn là căn bậc hai của phương sai.
SD(X) = sqrt(Var(X))
SD(X) = sqrt(5.079.600.000.000.000.000)
SD(X) ≈ 2.253.800.000 VNĐ
SD(X) ≈ 2.253,8 triệu đồng.
So sánh với các phương án:
* Phương án 1: 6 tỷ đồng (Đây là giá trị tài sản, không phải độ lệch chuẩn).
* Phương án 2: 1.020 triệu đồng (Đây là giá trị kỳ vọng hay mức trung bình của tổn thất, E(X)).
* Phương án 3: 5.079,5 triệu đồng (Con số này gần với giá trị phương sai nếu được biểu diễn bằng đơn vị tỷ^2, nhưng không phải độ lệch chuẩn và sai đơn vị).
* Phương án 4: 2.253,8 triệu đồng (Trùng khớp với kết quả tính toán của chúng ta).
Vậy, độ lệch chuẩn của những tổn thất thực tế so với mức trung bình là khoảng 2.253,8 triệu đồng.
Bước 1: Xác định biến ngẫu nhiên và các giá trị có thể.
Gọi X là biến ngẫu nhiên biểu thị tổn thất thực tế.
Có hai trường hợp xảy ra:
1. Rủi ro xảy ra: Tổn thất là hoàn toàn, tức là 6 tỷ đồng. Xác suất là P(X = 6 tỷ) = 17% = 0.17.
2. Rủi ro không xảy ra: Tổn thất là 0 đồng. Xác suất là P(X = 0 tỷ) = 1 - 0.17 = 0.83.
Bước 2: Tính giá trị kỳ vọng (mức trung bình) của tổn thất, E(X).
E(X) = (Giá trị tổn thất khi rủi ro xảy ra * Xác suất rủi ro) + (Giá trị tổn thất khi rủi ro không xảy ra * Xác suất không rủi ro)
E(X) = (6.000.000.000 VNĐ * 0.17) + (0 VNĐ * 0.83)
E(X) = 1.020.000.000 VNĐ
E(X) = 1.020 triệu đồng.
(Giá trị này trùng với phương án B, nhưng đây là mức trung bình, không phải độ lệch chuẩn).
Bước 3: Tính phương sai của tổn thất, Var(X).
Phương sai đo lường mức độ phân tán của dữ liệu so với giá trị trung bình. Đối với biến ngẫu nhiên chỉ có hai kết quả, công thức phương sai có thể dùng là:
Var(X) = E(X^2) - [E(X)]^2
Hoặc có thể dùng công thức cho phân phối Bernoulli tổng quát:
Var(X) = p * (1-p) * (a - b)^2
Trong đó: a là giá trị khi thành công (tổn thất xảy ra), b là giá trị khi thất bại (tổn thất không xảy ra), p là xác suất thành công.
Áp dụng công thức thứ hai:
Var(X) = 0.17 * (1 - 0.17) * (6.000.000.000 - 0)^2
Var(X) = 0.17 * 0.83 * (6.000.000.000)^2
Var(X) = 0.1411 * 36.000.000.000.000.000.000
Var(X) = 5.079.600.000.000.000.000 VNĐ^2
Bước 4: Tính độ lệch chuẩn của tổn thất, SD(X).
Độ lệch chuẩn là căn bậc hai của phương sai.
SD(X) = sqrt(Var(X))
SD(X) = sqrt(5.079.600.000.000.000.000)
SD(X) ≈ 2.253.800.000 VNĐ
SD(X) ≈ 2.253,8 triệu đồng.
So sánh với các phương án:
* Phương án 1: 6 tỷ đồng (Đây là giá trị tài sản, không phải độ lệch chuẩn).
* Phương án 2: 1.020 triệu đồng (Đây là giá trị kỳ vọng hay mức trung bình của tổn thất, E(X)).
* Phương án 3: 5.079,5 triệu đồng (Con số này gần với giá trị phương sai nếu được biểu diễn bằng đơn vị tỷ^2, nhưng không phải độ lệch chuẩn và sai đơn vị).
* Phương án 4: 2.253,8 triệu đồng (Trùng khớp với kết quả tính toán của chúng ta).
Vậy, độ lệch chuẩn của những tổn thất thực tế so với mức trung bình là khoảng 2.253,8 triệu đồng.
Lời giải:
Đáp án đúng: B
Trong hợp đồng bảo hiểm nhân thọ, có ba vai trò chính thường được nhắc đến:
1. Bên mua bảo hiểm: Là người ký kết hợp đồng bảo hiểm với doanh nghiệp bảo hiểm và có trách nhiệm đóng phí bảo hiểm. Bên mua bảo hiểm có thể đồng thời là người được bảo hiểm hoặc người thụ hưởng, nhưng không phải lúc nào cũng vậy.
2. Người được bảo hiểm: Là người có tính mạng, sức khỏe được bảo hiểm theo hợp đồng. Khi sự kiện bảo hiểm liên quan đến người này xảy ra (ví dụ: tử vong, mắc bệnh hiểm nghèo, thương tật vĩnh viễn), doanh nghiệp bảo hiểm sẽ thực hiện chi trả.
3. Người thụ hưởng: Là cá nhân hoặc tổ chức được bên mua bảo hiểm chỉ định để nhận quyền lợi bảo hiểm khi sự kiện bảo hiểm xảy ra đối với người được bảo hiểm. Đây là đối tượng được bảo hiểm nhằm đảm bảo quyền lợi tài chính cho họ trong trường hợp người được bảo hiểm không may gặp rủi ro.
Khi có sự kiện bảo hiểm xảy ra đối với hợp đồng bảo hiểm nhân thọ (ví dụ: người được bảo hiểm tử vong hoặc mắc bệnh hiểm nghèo được bảo hiểm), mục đích chính của việc chi trả là nhằm bù đắp thiệt hại tài chính hoặc hỗ trợ cho những người phụ thuộc, hoặc chính người được bảo hiểm nếu đó là quyền lợi sống. Trong hầu hết các trường hợp, đặc biệt là khi sự kiện bảo hiểm là tử vong của người được bảo hiểm, doanh nghiệp bảo hiểm sẽ chi trả tiền bảo hiểm cho Người thụ hưởng mà bên mua bảo hiểm đã chỉ định trước đó trong hợp đồng.
* Phương án 1: "Bên mua bảo hiểm" – Không phải lúc nào cũng đúng. Bên mua bảo hiểm chỉ nhận tiền nếu họ đồng thời là người thụ hưởng, hoặc nếu hợp đồng đáo hạn và họ là người được bảo hiểm, hoặc họ thực hiện quyền lợi rút tiền/giá trị hoàn lại.
* Phương án 3: "Người được bảo hiểm" – Không thể nhận tiền nếu sự kiện bảo hiểm là tử vong. Nếu là các quyền lợi sống (bệnh hiểm nghèo, thương tật), người được bảo hiểm sẽ nhận quyền lợi, nhưng về mặt thuật ngữ pháp lý, họ nhận với tư cách là người thụ hưởng quyền lợi đó (nếu đã được chỉ định hoặc mặc định là người thụ hưởng).
Vì vậy, Người thụ hưởng là đối tượng chính và trực tiếp nhận quyền lợi bảo hiểm khi sự kiện bảo hiểm xảy ra theo quy định của hợp đồng bảo hiểm nhân thọ.
1. Bên mua bảo hiểm: Là người ký kết hợp đồng bảo hiểm với doanh nghiệp bảo hiểm và có trách nhiệm đóng phí bảo hiểm. Bên mua bảo hiểm có thể đồng thời là người được bảo hiểm hoặc người thụ hưởng, nhưng không phải lúc nào cũng vậy.
2. Người được bảo hiểm: Là người có tính mạng, sức khỏe được bảo hiểm theo hợp đồng. Khi sự kiện bảo hiểm liên quan đến người này xảy ra (ví dụ: tử vong, mắc bệnh hiểm nghèo, thương tật vĩnh viễn), doanh nghiệp bảo hiểm sẽ thực hiện chi trả.
3. Người thụ hưởng: Là cá nhân hoặc tổ chức được bên mua bảo hiểm chỉ định để nhận quyền lợi bảo hiểm khi sự kiện bảo hiểm xảy ra đối với người được bảo hiểm. Đây là đối tượng được bảo hiểm nhằm đảm bảo quyền lợi tài chính cho họ trong trường hợp người được bảo hiểm không may gặp rủi ro.
Khi có sự kiện bảo hiểm xảy ra đối với hợp đồng bảo hiểm nhân thọ (ví dụ: người được bảo hiểm tử vong hoặc mắc bệnh hiểm nghèo được bảo hiểm), mục đích chính của việc chi trả là nhằm bù đắp thiệt hại tài chính hoặc hỗ trợ cho những người phụ thuộc, hoặc chính người được bảo hiểm nếu đó là quyền lợi sống. Trong hầu hết các trường hợp, đặc biệt là khi sự kiện bảo hiểm là tử vong của người được bảo hiểm, doanh nghiệp bảo hiểm sẽ chi trả tiền bảo hiểm cho Người thụ hưởng mà bên mua bảo hiểm đã chỉ định trước đó trong hợp đồng.
* Phương án 1: "Bên mua bảo hiểm" – Không phải lúc nào cũng đúng. Bên mua bảo hiểm chỉ nhận tiền nếu họ đồng thời là người thụ hưởng, hoặc nếu hợp đồng đáo hạn và họ là người được bảo hiểm, hoặc họ thực hiện quyền lợi rút tiền/giá trị hoàn lại.
* Phương án 3: "Người được bảo hiểm" – Không thể nhận tiền nếu sự kiện bảo hiểm là tử vong. Nếu là các quyền lợi sống (bệnh hiểm nghèo, thương tật), người được bảo hiểm sẽ nhận quyền lợi, nhưng về mặt thuật ngữ pháp lý, họ nhận với tư cách là người thụ hưởng quyền lợi đó (nếu đã được chỉ định hoặc mặc định là người thụ hưởng).
Vì vậy, Người thụ hưởng là đối tượng chính và trực tiếp nhận quyền lợi bảo hiểm khi sự kiện bảo hiểm xảy ra theo quy định của hợp đồng bảo hiểm nhân thọ.
Lời giải:
Đáp án đúng: C
Bảo hiểm sinh kỳ là một loại hình bảo hiểm nhân thọ, theo đó, doanh nghiệp bảo hiểm có trách nhiệm chi trả số tiền bảo hiểm cho người thụ hưởng nếu người được bảo hiểm sống đến một thời điểm xác định đã thỏa thuận trong hợp đồng. Ngược lại, nếu người được bảo hiểm tử vong trước thời điểm đó, doanh nghiệp bảo hiểm sẽ không phải chi trả quyền lợi bảo hiểm sinh kỳ (trừ khi hợp đồng có kèm thêm điều khoản bảo hiểm tử vong).
Phân tích các phương án:
* Phương án 1: Người được bảo hiểm tử vong trước khi kết thúc hợp đồng. Đây là điều kiện chi trả của bảo hiểm tử kỳ (term life insurance), nơi quyền lợi được trả khi người được bảo hiểm qua đời trong thời hạn hợp đồng. Hoàn toàn trái ngược với bản chất của bảo hiểm sinh kỳ.
* Phương án 2: Bên mua bảo hiểm tử vong trước khi kết thúc hợp đồng. Bên mua bảo hiểm là người đóng phí và ký kết hợp đồng, có thể là hoặc không phải là người được bảo hiểm. Quyền lợi bảo hiểm sinh kỳ phụ thuộc vào sự sống của người được bảo hiểm, không phải bên mua bảo hiểm. Cái chết của bên mua bảo hiểm có thể ảnh hưởng đến việc duy trì hợp đồng nhưng không phải là điều kiện để nhận quyền lợi sinh kỳ.
* Phương án 3: Người được bảo hiểm vẫn còn sống đến khi kết thúc hợp đồng. Đây chính xác là điều kiện tiên quyết và duy nhất để nhận quyền lợi từ hợp đồng bảo hiểm sinh kỳ. Mục đích của bảo hiểm sinh kỳ là tích lũy và đảm bảo tài chính cho một giai đoạn trong tương lai nếu người được bảo hiểm sống sót đến thời điểm đó (ví dụ: hưu trí, học vấn).
* Phương án 4: Bên mua bảo hiểm còn sống đến khi kết thúc hợp đồng. Tương tự như phương án 2, sự sống còn của bên mua bảo hiểm không phải là điều kiện để chi trả quyền lợi bảo hiểm sinh kỳ, mà là sự sống còn của người được bảo hiểm.
Vậy, điều kiện để được nhận quyền lợi bảo hiểm của hợp đồng bảo hiểm sinh kỳ là người được bảo hiểm vẫn còn sống đến khi kết thúc hợp đồng.
Phân tích các phương án:
* Phương án 1: Người được bảo hiểm tử vong trước khi kết thúc hợp đồng. Đây là điều kiện chi trả của bảo hiểm tử kỳ (term life insurance), nơi quyền lợi được trả khi người được bảo hiểm qua đời trong thời hạn hợp đồng. Hoàn toàn trái ngược với bản chất của bảo hiểm sinh kỳ.
* Phương án 2: Bên mua bảo hiểm tử vong trước khi kết thúc hợp đồng. Bên mua bảo hiểm là người đóng phí và ký kết hợp đồng, có thể là hoặc không phải là người được bảo hiểm. Quyền lợi bảo hiểm sinh kỳ phụ thuộc vào sự sống của người được bảo hiểm, không phải bên mua bảo hiểm. Cái chết của bên mua bảo hiểm có thể ảnh hưởng đến việc duy trì hợp đồng nhưng không phải là điều kiện để nhận quyền lợi sinh kỳ.
* Phương án 3: Người được bảo hiểm vẫn còn sống đến khi kết thúc hợp đồng. Đây chính xác là điều kiện tiên quyết và duy nhất để nhận quyền lợi từ hợp đồng bảo hiểm sinh kỳ. Mục đích của bảo hiểm sinh kỳ là tích lũy và đảm bảo tài chính cho một giai đoạn trong tương lai nếu người được bảo hiểm sống sót đến thời điểm đó (ví dụ: hưu trí, học vấn).
* Phương án 4: Bên mua bảo hiểm còn sống đến khi kết thúc hợp đồng. Tương tự như phương án 2, sự sống còn của bên mua bảo hiểm không phải là điều kiện để chi trả quyền lợi bảo hiểm sinh kỳ, mà là sự sống còn của người được bảo hiểm.
Vậy, điều kiện để được nhận quyền lợi bảo hiểm của hợp đồng bảo hiểm sinh kỳ là người được bảo hiểm vẫn còn sống đến khi kết thúc hợp đồng.
Lời giải:
Đáp án đúng: B
Để đảm bảo hoạt động kinh doanh bền vững và khả năng chi trả các quyền lợi bảo hiểm cho khách hàng, Doanh nghiệp bảo hiểm (DNBH) phải tuân thủ nghiêm ngặt các nguyên tắc đầu tư theo một thứ tự ưu tiên nhất định. Thứ tự này phản ánh bản chất đặc thù của hoạt động bảo hiểm, nơi sự an toàn và khả năng thanh toán là tối quan trọng.
Các nguyên tắc đầu tư cơ bản gồm có: An toàn, Tính thanh khoản và Sinh lợi. Thứ tự ưu tiên của chúng trong hoạt động của DNBH như sau:
1. An toàn (Safety): Đây là nguyên tắc quan trọng nhất, đặt lên hàng đầu. Vốn của DNBH phần lớn đến từ phí bảo hiểm của người tham gia, mà số tiền này sẽ được dùng để chi trả bồi thường khi có sự kiện bảo hiểm xảy ra. Do đó, việc bảo toàn vốn là ưu tiên số một. DNBH phải đầu tư vào các tài sản có rủi ro thấp, đảm bảo khả năng thu hồi vốn gốc, tránh thua lỗ để có thể luôn giữ được cam kết với khách hàng.
2. Tính thanh khoản (Liquidity): Nguyên tắc này đứng thứ hai sau an toàn. DNBH cần đảm bảo rằng các khoản đầu tư của mình có thể dễ dàng chuyển đổi thành tiền mặt một cách nhanh chóng khi cần thiết mà không làm mất giá trị đáng kể. Điều này cực kỳ quan trọng để DNBH có thể thanh toán kịp thời các yêu cầu bồi thường và các nghĩa vụ tài chính phát sinh khác. Nếu các khoản đầu tư thiếu thanh khoản, DNBH có thể gặp khó khăn trong việc chi trả, ảnh hưởng nghiêm trọng đến uy tín và khả năng hoạt động.
3. Sinh lợi (Profitability/Return): Nguyên tắc sinh lợi đứng cuối cùng trong thứ tự ưu tiên. Sau khi đã đảm bảo an toàn và tính thanh khoản của vốn đầu tư, DNBH mới tìm kiếm các cơ hội đầu tư để tạo ra lợi nhuận. Lợi nhuận từ hoạt động đầu tư giúp DNBH gia tăng vốn chủ sở hữu, bù đắp chi phí hoạt động, giảm phí bảo hiểm cho khách hàng hoặc tăng cường khả năng cạnh tranh trên thị trường. Tuy nhiên, việc tìm kiếm lợi nhuận phải luôn nằm trong khuôn khổ cho phép của hai nguyên tắc an toàn và thanh khoản.
Phân tích các phương án:
* Phương án 1: An toàn, sinh lợi, tính thanh khoản của khoản đầu tư: Thứ tự này sai vì nguyên tắc sinh lợi không được ưu tiên hơn tính thanh khoản đối với DNBH.
* Phương án 2: An toàn tính thanh khoản của khoản đầu tư sinh lời: Phương án này thể hiện đúng thứ tự ưu tiên: An toàn là hàng đầu, sau đó là tính thanh khoản của khoản đầu tư, và cuối cùng mới là mục tiêu sinh lời. Cách diễn đạt này mặc dù hơi khó hiểu nhưng phản ánh đúng bản chất của ba nguyên tắc theo thứ tự ưu tiên đã nêu.
* Phương án 3: Sinh lợi tính thanh khoản an toàn: Thứ tự này hoàn toàn sai vì đặt sinh lợi lên hàng đầu, bỏ qua sự an toàn và thanh khoản thiết yếu.
* Phương án 4: Sinh lợi an toàn tính thanh khoản: Thứ tự này cũng sai vì đặt sinh lợi lên hàng đầu.
Vậy, thứ tự ưu tiên đúng nhất cho DNBH khi lựa chọn danh mục đầu tư là An toàn, Tính thanh khoản, và cuối cùng là Sinh lợi.
Các nguyên tắc đầu tư cơ bản gồm có: An toàn, Tính thanh khoản và Sinh lợi. Thứ tự ưu tiên của chúng trong hoạt động của DNBH như sau:
1. An toàn (Safety): Đây là nguyên tắc quan trọng nhất, đặt lên hàng đầu. Vốn của DNBH phần lớn đến từ phí bảo hiểm của người tham gia, mà số tiền này sẽ được dùng để chi trả bồi thường khi có sự kiện bảo hiểm xảy ra. Do đó, việc bảo toàn vốn là ưu tiên số một. DNBH phải đầu tư vào các tài sản có rủi ro thấp, đảm bảo khả năng thu hồi vốn gốc, tránh thua lỗ để có thể luôn giữ được cam kết với khách hàng.
2. Tính thanh khoản (Liquidity): Nguyên tắc này đứng thứ hai sau an toàn. DNBH cần đảm bảo rằng các khoản đầu tư của mình có thể dễ dàng chuyển đổi thành tiền mặt một cách nhanh chóng khi cần thiết mà không làm mất giá trị đáng kể. Điều này cực kỳ quan trọng để DNBH có thể thanh toán kịp thời các yêu cầu bồi thường và các nghĩa vụ tài chính phát sinh khác. Nếu các khoản đầu tư thiếu thanh khoản, DNBH có thể gặp khó khăn trong việc chi trả, ảnh hưởng nghiêm trọng đến uy tín và khả năng hoạt động.
3. Sinh lợi (Profitability/Return): Nguyên tắc sinh lợi đứng cuối cùng trong thứ tự ưu tiên. Sau khi đã đảm bảo an toàn và tính thanh khoản của vốn đầu tư, DNBH mới tìm kiếm các cơ hội đầu tư để tạo ra lợi nhuận. Lợi nhuận từ hoạt động đầu tư giúp DNBH gia tăng vốn chủ sở hữu, bù đắp chi phí hoạt động, giảm phí bảo hiểm cho khách hàng hoặc tăng cường khả năng cạnh tranh trên thị trường. Tuy nhiên, việc tìm kiếm lợi nhuận phải luôn nằm trong khuôn khổ cho phép của hai nguyên tắc an toàn và thanh khoản.
Phân tích các phương án:
* Phương án 1: An toàn, sinh lợi, tính thanh khoản của khoản đầu tư: Thứ tự này sai vì nguyên tắc sinh lợi không được ưu tiên hơn tính thanh khoản đối với DNBH.
* Phương án 2: An toàn tính thanh khoản của khoản đầu tư sinh lời: Phương án này thể hiện đúng thứ tự ưu tiên: An toàn là hàng đầu, sau đó là tính thanh khoản của khoản đầu tư, và cuối cùng mới là mục tiêu sinh lời. Cách diễn đạt này mặc dù hơi khó hiểu nhưng phản ánh đúng bản chất của ba nguyên tắc theo thứ tự ưu tiên đã nêu.
* Phương án 3: Sinh lợi tính thanh khoản an toàn: Thứ tự này hoàn toàn sai vì đặt sinh lợi lên hàng đầu, bỏ qua sự an toàn và thanh khoản thiết yếu.
* Phương án 4: Sinh lợi an toàn tính thanh khoản: Thứ tự này cũng sai vì đặt sinh lợi lên hàng đầu.
Vậy, thứ tự ưu tiên đúng nhất cho DNBH khi lựa chọn danh mục đầu tư là An toàn, Tính thanh khoản, và cuối cùng là Sinh lợi.
Lời giải:
Đáp án đúng: B
Phân tích câu hỏi và các phương án:
Chủ đề chính của câu hỏi là các kênh truyền dẫn của chính sách tiền tệ mở rộng, đặc biệt tập trung vào tác động đến thị trường nhà ở và tổng cầu xã hội.
Chính sách tiền tệ mở rộng thường bao gồm việc giảm lãi suất cơ bản, mua trái phiếu chính phủ hoặc giảm yêu cầu dự trữ bắt buộc, nhằm mục đích tăng cung tiền trong nền kinh tế. Mục tiêu cuối cùng là kích thích chi tiêu, đầu tư và tăng tổng cầu.
Chúng ta sẽ phân tích từng phương án:
* Phương án 1: Chính sách tiền tệ mở rộng -> giá nhà ở tăng -> giá trị tài sản thế chấp tăng -> đầu tư giảm
* Chính sách tiền tệ mở rộng thường dẫn đến lãi suất thấp hơn, khuyến khích vay mượn để mua nhà, từ đó làm tăng cầu và đẩy giá nhà ở lên. Điều này là hợp lý.
* Giá nhà ở tăng sẽ làm tăng giá trị tài sản mà các cá nhân và doanh nghiệp dùng để thế chấp khi vay vốn, từ đó nâng cao khả năng tiếp cận tín dụng của họ (kênh bảng cân đối kế toán). Điều này cũng hợp lý.
* Tuy nhiên, khi giá trị tài sản thế chấp tăng và việc vay mượn trở nên dễ dàng hơn, nó sẽ khuyến khích các khoản vay đầu tư và tiêu dùng, chứ không phải làm giảm đầu tư. Do đó, liên kết "đầu tư giảm" là sai.
* Phương án 2: Chính sách tiền tệ mở rộng -> giá nhà ở tăng -> đầu tư tăng -> tổng cầu xã hội tăng
* Chính sách tiền tệ mở rộng làm giảm lãi suất, kích thích nhu cầu mua nhà, dẫn đến giá nhà ở tăng. (Hợp lý)
* Giá nhà ở tăng làm tăng tài sản ròng của các hộ gia đình (hiệu ứng của cải) và tăng giá trị tài sản thế chấp. Điều này khuyến khích chi tiêu tiêu dùng và các khoản đầu tư, đặc biệt là đầu tư vào bất động sản và các dự án có thể được tài trợ dễ dàng hơn nhờ khả năng tiếp cận tín dụng tốt hơn. Do đó, "đầu tư tăng" là hợp lý.
* Sự gia tăng trong đầu tư và tiêu dùng (do hiệu ứng của cải) trực tiếp góp phần làm tăng tổng cầu xã hội. (Hợp lý)
* Chuỗi liên kết này là hoàn toàn hợp lý và phù hợp với lý thuyết về kênh truyền dẫn tài sản (asset price channel) và kênh tín dụng (credit channel) của chính sách tiền tệ.
* Phương án 3: Chính sách tiền tệ mở rộng -> giá nhà ở tăng -> sự giàu có gia đình giảm -> tổng cầu xã hội tăng
* Chính sách tiền tệ mở rộng dẫn đến giá nhà ở tăng. (Hợp lý)
* Tuy nhiên, khi giá nhà ở tăng, giá trị tài sản chính của nhiều hộ gia đình tăng lên, điều này làm tăng sự giàu có của gia đình, chứ không phải làm giảm. Do đó, liên kết "sự giàu có gia đình giảm" là sai.
* Mặc dù tổng cầu xã hội có thể tăng do các yếu tố khác của chính sách tiền tệ mở rộng, nhưng liên kết qua "sự giàu có gia đình giảm" là không chính xác.
* Phương án 4: Chính sách tiền tệ mở rộng -> giá nhà ở giảm -> tổng cầu xã hội tăng
* Chính sách tiền tệ mở rộng làm giảm lãi suất, khuyến khích vay mượn, dẫn đến tăng nhu cầu và giá nhà ở, chứ không phải giảm. Do đó, liên kết "giá nhà ở giảm" là sai.
* Tổng cầu xã hội tăng là mục tiêu của chính sách tiền tệ mở rộng, nhưng con đường dẫn đến đó thông qua "giá nhà ở giảm" là không chính xác.
Kết luận: Phương án 2 mô tả đúng nhất kênh truyền dẫn của chính sách tiền tệ mở rộng thông qua thị trường nhà ở và tác động của nó đến đầu tư và tổng cầu xã hội.
Chủ đề chính của câu hỏi là các kênh truyền dẫn của chính sách tiền tệ mở rộng, đặc biệt tập trung vào tác động đến thị trường nhà ở và tổng cầu xã hội.
Chính sách tiền tệ mở rộng thường bao gồm việc giảm lãi suất cơ bản, mua trái phiếu chính phủ hoặc giảm yêu cầu dự trữ bắt buộc, nhằm mục đích tăng cung tiền trong nền kinh tế. Mục tiêu cuối cùng là kích thích chi tiêu, đầu tư và tăng tổng cầu.
Chúng ta sẽ phân tích từng phương án:
* Phương án 1: Chính sách tiền tệ mở rộng -> giá nhà ở tăng -> giá trị tài sản thế chấp tăng -> đầu tư giảm
* Chính sách tiền tệ mở rộng thường dẫn đến lãi suất thấp hơn, khuyến khích vay mượn để mua nhà, từ đó làm tăng cầu và đẩy giá nhà ở lên. Điều này là hợp lý.
* Giá nhà ở tăng sẽ làm tăng giá trị tài sản mà các cá nhân và doanh nghiệp dùng để thế chấp khi vay vốn, từ đó nâng cao khả năng tiếp cận tín dụng của họ (kênh bảng cân đối kế toán). Điều này cũng hợp lý.
* Tuy nhiên, khi giá trị tài sản thế chấp tăng và việc vay mượn trở nên dễ dàng hơn, nó sẽ khuyến khích các khoản vay đầu tư và tiêu dùng, chứ không phải làm giảm đầu tư. Do đó, liên kết "đầu tư giảm" là sai.
* Phương án 2: Chính sách tiền tệ mở rộng -> giá nhà ở tăng -> đầu tư tăng -> tổng cầu xã hội tăng
* Chính sách tiền tệ mở rộng làm giảm lãi suất, kích thích nhu cầu mua nhà, dẫn đến giá nhà ở tăng. (Hợp lý)
* Giá nhà ở tăng làm tăng tài sản ròng của các hộ gia đình (hiệu ứng của cải) và tăng giá trị tài sản thế chấp. Điều này khuyến khích chi tiêu tiêu dùng và các khoản đầu tư, đặc biệt là đầu tư vào bất động sản và các dự án có thể được tài trợ dễ dàng hơn nhờ khả năng tiếp cận tín dụng tốt hơn. Do đó, "đầu tư tăng" là hợp lý.
* Sự gia tăng trong đầu tư và tiêu dùng (do hiệu ứng của cải) trực tiếp góp phần làm tăng tổng cầu xã hội. (Hợp lý)
* Chuỗi liên kết này là hoàn toàn hợp lý và phù hợp với lý thuyết về kênh truyền dẫn tài sản (asset price channel) và kênh tín dụng (credit channel) của chính sách tiền tệ.
* Phương án 3: Chính sách tiền tệ mở rộng -> giá nhà ở tăng -> sự giàu có gia đình giảm -> tổng cầu xã hội tăng
* Chính sách tiền tệ mở rộng dẫn đến giá nhà ở tăng. (Hợp lý)
* Tuy nhiên, khi giá nhà ở tăng, giá trị tài sản chính của nhiều hộ gia đình tăng lên, điều này làm tăng sự giàu có của gia đình, chứ không phải làm giảm. Do đó, liên kết "sự giàu có gia đình giảm" là sai.
* Mặc dù tổng cầu xã hội có thể tăng do các yếu tố khác của chính sách tiền tệ mở rộng, nhưng liên kết qua "sự giàu có gia đình giảm" là không chính xác.
* Phương án 4: Chính sách tiền tệ mở rộng -> giá nhà ở giảm -> tổng cầu xã hội tăng
* Chính sách tiền tệ mở rộng làm giảm lãi suất, khuyến khích vay mượn, dẫn đến tăng nhu cầu và giá nhà ở, chứ không phải giảm. Do đó, liên kết "giá nhà ở giảm" là sai.
* Tổng cầu xã hội tăng là mục tiêu của chính sách tiền tệ mở rộng, nhưng con đường dẫn đến đó thông qua "giá nhà ở giảm" là không chính xác.
Kết luận: Phương án 2 mô tả đúng nhất kênh truyền dẫn của chính sách tiền tệ mở rộng thông qua thị trường nhà ở và tác động của nó đến đầu tư và tổng cầu xã hội.
Lời giải:
Bạn cần đăng ký gói VIP để làm bài, xem đáp án và lời giải chi tiết không giới hạn. Nâng cấp VIP
Lời giải:
Bạn cần đăng ký gói VIP để làm bài, xem đáp án và lời giải chi tiết không giới hạn. Nâng cấp VIP
Lời giải:
Bạn cần đăng ký gói VIP để làm bài, xem đáp án và lời giải chi tiết không giới hạn. Nâng cấp VIP
Câu 5: Mục đích của việc khai báo rủi ro khi thiết lập hợp đồng BH là gì? Hãy chọn đáp án đúng nhất?
Lời giải:
Bạn cần đăng ký gói VIP để làm bài, xem đáp án và lời giải chi tiết không giới hạn. Nâng cấp VIP
Lời giải:
Bạn cần đăng ký gói VIP để làm bài, xem đáp án và lời giải chi tiết không giới hạn. Nâng cấp VIP

Bộ Đồ Án Tốt Nghiệp Ngành Trí Tuệ Nhân Tạo Và Học Máy
89 tài liệu310 lượt tải

Bộ 120+ Đồ Án Tốt Nghiệp Ngành Hệ Thống Thông Tin
125 tài liệu441 lượt tải

Bộ Đồ Án Tốt Nghiệp Ngành Mạng Máy Tính Và Truyền Thông
104 tài liệu687 lượt tải

Bộ Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Kiểm Toán
103 tài liệu589 lượt tải

Bộ 370+ Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Kế Toán Doanh Nghiệp
377 tài liệu1030 lượt tải

Bộ Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Quản Trị Thương Hiệu
99 tài liệu1062 lượt tải
ĐĂNG KÝ GÓI THI VIP
- Truy cập hơn 100K đề thi thử và chính thức các năm
- 2M câu hỏi theo các mức độ: Nhận biết – Thông hiểu – Vận dụng
- Học nhanh với 10K Flashcard Tiếng Anh theo bộ sách và chủ đề
- Đầy đủ: Mầm non – Phổ thông (K12) – Đại học – Người đi làm
- Tải toàn bộ tài liệu trên TaiLieu.VN
- Loại bỏ quảng cáo để tăng khả năng tập trung ôn luyện
- Tặng 15 ngày khi đăng ký gói 3 tháng, 30 ngày với gói 6 tháng và 60 ngày với gói 12 tháng.
77.000 đ/ tháng