25 câu hỏi 60 phút
Khi nghiên cứu về thành phần amino acid ở chuỗi β Hb của Người và Tinh tinh, các nhà nghiên cứu thấy chúng có trình tự các amino acid giống nhau chứng tỏ cùng một nguồn gốc. Đây gọi là:
bằng chứng sinh học phân tử
bằng chứng giải phẫu so sánh
bằng chứng đại lí sinh học
bằng chứng phôi sinh học
Khi so sánh trình tự amino acid trong chuỗi β Hb của Người và Tinh tinh, sự giống nhau này cho thấy mối quan hệ nguồn gốc chung giữa hai loài. Đây là bằng chứng thuộc lĩnh vực sinh học phân tử, vì nó dựa trên phân tích thành phần và cấu trúc của phân tử sinh học (như protein và DNA).
Khi so sánh trình tự amino acid trong chuỗi β Hb của Người và Tinh tinh, sự giống nhau này cho thấy mối quan hệ nguồn gốc chung giữa hai loài. Đây là bằng chứng thuộc lĩnh vực sinh học phân tử, vì nó dựa trên phân tích thành phần và cấu trúc của phân tử sinh học (như protein và DNA).
Hoá thạch là:
Hoá thạch là di tích của các sinh vật sống trong các thời đại trước đã để lại trong lớp địa chất của vỏ Trái Đất, xác sinh vật hóa đá hoặc được bảo tồn trong các điều kiện đặc biệt.
Theo Darwin trong quần thể tự nhiên đã tồn tại sẵn những biến dị. Khi môi trường thay đổi những cá thể nào có biến dị có lợi giúp sinh vật tồn tại và phát triển thì khả năng sống sót và sinh sản cao hơn, những cá thể nào có những biến dị có hại thì bị đào thải.
Charles Darwin đã xây dựng thuyết chọn lọc tự nhiên dựa trên việc quan sát kỹ lưỡng thế giới tự nhiên (như các loài trên quần đảo Galápagos). Từ các quan sát này, ông đưa ra các giả thuyết để giải thích sự đa dạng và tiến hóa của các loài. Sau đó, ông kiểm chứng giả thuyết bằng nhiều bằng chứng thực nghiệm và dữ liệu. Cuối cùng, ông hoàn thiện học thuyết chọn lọc tự nhiên, được trình bày trong cuốn sách "Nguồn gốc các loài".
Theo thuyết tiến hoá tổng hợp thì tiến hóa nhỏ là quá trình biến đổi tần số allele và thành phần kiểu gene của quần thể.
Tiến hóa lớn là:
Ở quần đảo Galapagos thuộc vùng Nam Mỹ, loài chim sẻ Geospiza fortis có kích thước mỏ đa dạng và phù hợp với các loại hạt cây mà chúng ăn: chim sẻ có mỏ nhỏ thường ăn hạt nhỏ, mềm; chim sẻ có mỏ lớn ăn các hạt to, cứng. Trong một nghiên cứu, kích thước mỏ trung bình của quần thể chim sẻ đo được năm 1976 là 9,4 mm. Năm 1977, một đợt hạn hán kéo dài làm phần lớn các cây có hạt nhỏ, mềm bị chết do chịu hạn kém. Trong thời gian đó, khoảng 80% chim sẻ bị chết, chủ yếu là chim ăn hạt nhỏ, mềm có mỏ nhỏ. Đến năm 1978, quần thể chim sẻ này có kích thước mỏ trung bình là 10,2 mm
Kích thước khác nhau của các loại hạt mà các loài chim sẻ sử dụng làm thức ăn ở trên quần đảo là nguyên nhân trực tiếp gây ra biến đổi về kích thước mỏ
Tiến hoá đang diễn ra ở quần thể chim sẻ trên đảo Galapagos. Qua thời gian, có sự thay đổi tần số allele và tần số kiểu gene dẫn đến sự thay đổi trong đặc điểm di truyền của quần thể
Chim sẻ có đặc điểm thích nghi liên quan đến kích thước mỏ và đặc điểm thích nghi này có tính hợp lí tương đối
Nếu hiện tượng mưa nhiều xuất hiện trở lại ở khu vực này, cây có hạt nhỏ, mềm sinh trưởng trở lại, các chim sẻ có kích thước mỏ nhỏ sẽ có lợi thế sinh tồn hơn. Do đó, sau một vài năm, kích thước mỏ trung bình của quần thể chim sẻ sẽ giảm xuống gần với mức ban đầu hoặc thậm chí thấp hơn nếu chọn lọc tự nhiên tiếp tục diễn ra
Khi nghiên cứu về tập tính sinh sản và khả năng thích nghi của loài Cá mòi cờ chấm (Clupanodon punctatus), kết quả thu được được biểu diễn như biểu đồ hình bên.
Giới hạn sinh thái về độ mặn của nhóm tuổi 2+ rộng hơn so với nhóm tuổi 0+
Vào mùa sinh sản, loài cá này có tập tính di cư vào vùng nước ngọt hơn để đẻ trứng
Việc không hiện diện những cá thể có độ tuổi 4+ ở vùng cửa sông chỉ có thể được giải thích là do chúng không còn khả năng sinh sản
Để đảm bảo sự tăng trưởng bền vững của quần thể loài cá này, chỉ nên khai thác và đánh bắt cá ở vùng cửa sông
Từ một quần thể bọ rùa ban đầu, người ta đã chia ra thành các nhóm quần thể và đưa vào các môi trường sống khác nhau. Sau một thời gian, tiến hành phân tích thành phần kiểu gene của các quần thể đó và thu được kết quả như bảng sau.
Quần thể ban đầu |
1AA : 1aa |
Quần thể 1 |
3AA : 1Aa |
Quần thể 2 |
5AA : 2Aa : 1aa |
Quần thể 3 |
4AA : 3Aa : 1aa1 |
Biết rằng allele A trội hoàn toàn so với allele a và allele a1; quần thể giao phối ngẫu nhiên
Allele a1 xuất hiện ở quần thể 3 có thể đã được tạo ra nhờ nhân tố dòng gene
Quần thể 2 có độ đa dạng di truyền cao nhất
Allele A có xu hướng thích nghi tốt hơn allele a
Nếu đột ngột thay đổi yếu tố chọn lọc tự nhiên trên các quần thể thì quần thể 1 sẽ có khả năng sống sót cao nhất
Ở một loài động vật, tính trạng màu lông do cặp gene A, a quy định, trong đó AA quy định lông đen, Aa quy định lông nâu, aa quy định lông trắng. Thế hệ xuất phát có tỉ lệ kiểu hình là 0,25 AA : 0,5Aa : 0,25 aa. Biết rằng ở quần thể này có tỉ lệ thụ tinh giao tử A là 30%, giao tử a là 10%. Tỉ lệ sống sót đến giai đoạn trưởng thành của các hợp tử AA, Aa, aa lần lượt là 30%, 40% và 30%
Tần số allele không đổi qua các thế hệ
Tỉ lệ kiểu hình lặn sẽ giảm dần qua các thế hệ
Ở F1, tỉ lệ cá thể lông trắng sống đến giai đoạn trưởng thành chiếm tỉ lệ là \(\frac{3}{40}\)
Chọn lọc tự nhiên đang chống lại allele trội
Một nhà khoa học đã trồng các cây cỏ thi (Achillea millefolium) thuộc hai dòng (các cây cùng dòng có cùng kiểu gene) ở ba vùng có chiều cao so với mặt nước biển khác nhau, điều kiện chăm sóc như nhau. Mức phản ứng của hai dòng cỏ thi được thể hiện ở biểu đồ dưới đây:
Nguyên nhân gây ra sự biến đổi chiều cao của các cây ở dòng B ở các độ cao khác nhau là do đột biến gene
Sự biến đổi chiều cao của các cây có cùng một kiểu gene ở dòng A ở các độ cao khác nhau được gọi là thường biến
Nếu xét trong khoảng độ cao từ 30m → 3000m thì dòng B có mức phản ứng rộng gấp đôi dòng A
Mức phản ứng của cả hai dòng cỏ thi (Achillea millefolium) đều do kiểu gene quy định