Chuẩn độ dung dịch acid và base dựa theo nguyên tắc nào?
A. Xác định nồng độ của dung dịch base mạnh bằng dung dịch muối khi đã biết nồng độ.
B. Dùng thí nghiệm cho dung dịch acid và base phản ứng vừa đủ không cần xác định nồng độ.
C. Xác định nồng độ của một chất trong dung dịch bằng một dung dịch khác không cần biết nồng độ.
D. Xác định nồng độ của dung dịch base mạnh bằng một dung dịch acid mạnh ( hoặc ngược lại) đã biết nồng độ dựa vào phản ứng trung hòa: H+ + OH- H2O.
Trả lời:
Đáp án đúng: D
Chuẩn độ acid-base là một kỹ thuật phân tích định lượng để xác định nồng độ của một dung dịch acid hoặc base. Nguyên tắc cơ bản là dựa vào phản ứng trung hòa giữa acid và base. Ta cần một dung dịch acid hoặc base đã biết chính xác nồng độ (dung dịch chuẩn) để chuẩn độ dung dịch chưa biết nồng độ.
Đáp án A sai vì dùng dung dịch muối để chuẩn độ base không phải là nguyên tắc chuẩn độ acid-base thông thường.
Đáp án B sai vì cần xác định nồng độ để biết được lượng acid hoặc base đã phản ứng.
Đáp án C sai vì cần biết nồng độ của một dung dịch (dung dịch chuẩn).
Đáp án D đúng vì nó mô tả chính xác nguyên tắc của chuẩn độ acid-base, sử dụng phản ứng trung hòa và dung dịch chuẩn đã biết nồng độ.
Câu hỏi này thuộc đề thi trắc nghiệm dưới đây, bấm vào Bắt đầu thi để làm toàn bài
Ở trạng thái cân bằng của phản ứng thuận nghịch, tốc độ phản ứng thuận bằng tốc độ phản ứng nghịch. Các nồng độ chất phản ứng và sản phẩm không thay đổi theo thời gian. Đáp án đúng là B.
Trong không khí, nitơ (N₂) chiếm khoảng 78% thể tích, oxy (O₂) chiếm khoảng 21%, argon chiếm khoảng 0.9%, và các khí khác (bao gồm CO₂) chiếm phần còn lại. Do đó, nitơ là chất chiếm phần trăm thể tích lớn nhất.
Nitric acid ($HNO_3$) là một acid mạnh và có tính oxi hóa mạnh. Khi để lâu, $HNO_3$ có thể bị phân hủy một phần, tạo thành $NO_2$ có màu vàng nâu, do đó dung dịch có màu vàng nâu. Tuy nhiên, $HNO_3$ không có tính khử mạnh. Vì vậy, đáp án C là không đúng.
Nitrogen (N2) có tính trơ ở nhiệt độ thấp chủ yếu là do liên kết ba (N≡N) trong phân tử nitrogen rất bền. Để phá vỡ liên kết này cần một năng lượng lớn.
Đáp án A không đúng vì bán kính nguyên tử nhỏ không phải là nguyên nhân chính.
Đáp án B không đúng vì mặc dù phân tử N2 không phân cực, nhưng đây không phải là yếu tố quyết định tính trơ.
Đáp án C không đúng vì độ âm điện lớn không giải thích được tính trơ của nitrogen.
NaOH là một base mạnh, nên nó sẽ phân li hoàn toàn trong nước. Nồng độ của ion OH- là [OH-] = 0.001M = $10^{-3}$M. pOH = -log[OH-] = -log($10^{-3}$) = 3. pH + pOH = 14, do đó pH = 14 - pOH = 14 - 3 = 11.