Phương pháp lấy mẫu nước tiểu tốt nhất để nuôi cấy vi khuẩn
Trả lời:
Đáp án đúng: B
Câu hỏi kiểm tra kiến thức về phương pháp lấy mẫu nước tiểu đảm bảo tính vô trùng và đại diện cho việc nuôi cấy vi khuẩn. Để nuôi cấy vi khuẩn từ nước tiểu, mục tiêu là thu thập mẫu đại diện cho tình trạng nhiễm trùng, đồng thời loại bỏ tối đa nguy cơ nhiễm bẩn từ môi trường bên ngoài hoặc từ chính người lấy mẫu. Hệ thống dẫn lưu kín (như catheter) thường giúp thu thập mẫu nước tiểu vô trùng hơn so với lấy ngẫu nhiên, đặc biệt khi bệnh nhân đang sử dụng catheter. Việc sử dụng lọ vô khuẩn là yêu cầu bắt buộc để tránh làm nhiễm bẩn mẫu với vi sinh vật có sẵn trong lọ, dẫn đến kết quả nuôi cấy sai lệch. Do đó, phương pháp lấy mẫu từ hệ thống dẫn lưu kín và sử dụng lọ vô khuẩn là tối ưu nhất để đảm bảo chất lượng mẫu cho nuôi cấy vi khuẩn.
Câu hỏi liên quan
Lời giải:
Đáp án đúng: D
Câu hỏi đề cập đến việc thiết lập đường truyền tĩnh mạch trong tình huống cấp cứu ngưng hô hấp – tuần hoàn. Phương án 0: "Là điều bắt buộc để hồi sức ngừng tim thành công" là sai vì trong trường hợp khẩn cấp, việc thiết lập đường truyền tĩnh mạch có thể mất thời gian và không phải lúc nào cũng là bước đầu tiên hoặc bắt buộc để bắt đầu hồi sức tim phổi. Ưu tiên là ép tim và thông khí. Phương án 1: "Bắt buộc phải là đường tĩnh mạch trung tâm" là sai vì đường tĩnh mạch ngoại vi (ví dụ: ở khuỷu tay) cũng có thể được sử dụng, đặc biệt là trong giai đoạn đầu hoặc khi không có sẵn phương tiện đặt đường tĩnh mạch trung tâm ngay lập tức. Phương án 2: "Tĩnh mạch ở khuỷu rất khó khăn trong việc cần cung cấp thuốc nhanh" là sai. Tĩnh mạch khuỷu tay là một trong những đường vào tĩnh mạch ngoại vi phổ biến và tương đối dễ tiếp cận để truyền dịch và thuốc nhanh chóng trong trường hợp cấp cứu. Phương án 3: "Tĩnh mạch cảnh trong và tĩnh mạch đùi thường ít được chọn" là đúng. Tĩnh mạch cảnh trong và tĩnh mạch đùi là các vị trí đặt đường tĩnh mạch trung tâm. Mặc dù chúng có thể được sử dụng, nhưng trong một số tình huống cấp cứu, đặc biệt là khi cần tiếp cận nhanh chóng và không có các biến chứng hoặc chống chỉ định, các vị trí tĩnh mạch ngoại vi có thể được ưu tiên hơn hoặc được thực hiện song song. Tuy nhiên, khi nói về "thiết lập đường truyền tĩnh mạch" trong ngưng tim, việc cân nhắc các vị trí này (cả ngoại vi và trung tâm) là cần thiết, và câu này có lẽ ám chỉ các vị trí ít được ưu tiên hoặc đòi hỏi kỹ thuật cao hơn/tốn thời gian hơn so với các đường ngoại vi trong bối cảnh khẩn cấp ban đầu. Tuy nhiên, nếu xét về tính khả thi và tốc độ ban đầu, tĩnh mạch ngoại vi khuỷu thường được chọn đầu tiên để cung cấp thuốc khẩn cấp. Nhưng câu hỏi là về "thiết lập đường truyền tĩnh mạch" nói chung trong tình huống này. Xét lại, phương án 3 phát biểu rằng các tĩnh mạch này "thường ít được chọn" là đúng trong nhiều bối cảnh cấp cứu ban đầu so với tĩnh mạch ngoại vi. Tuy nhiên, nếu mục tiêu là cung cấp thuốc nhanh, đường trung tâm (bao gồm cả cảnh trong, đùi) là hữu ích. Có thể có sự nhầm lẫn trong cách diễn đạt của các lựa chọn. Để làm rõ hơn, trong ngưng tim, việc thiết lập đường truyền tĩnh mạch là cần thiết để dùng thuốc. Đường tĩnh mạch ngoại vi là nhanh nhất và dễ thực hiện nhất. Nếu không thành công hoặc cần truyền dịch nhiều/thuốc có nồng độ cao, đường trung tâm sẽ được xem xét. Tĩnh mạch cảnh trong và đùi là các vị trí đặt đường trung tâm phổ biến. Việc chúng "ít được chọn" có thể hiểu là không phải là lựa chọn đầu tiên hoặc dễ dàng nhất so với đường ngoại vi, đặc biệt khi so sánh với tốc độ thiết lập ban đầu. Tuy nhiên, trong hồi sức tim phổi nâng cao (ACLS), việc đặt đường tĩnh mạch trung tâm được xem xét để truyền thuốc liên tục hoặc truyền dịch khối lượng lớn. Xét lại các lựa chọn, phương án 3 là khả dĩ nhất khi hiểu rằng các vị trí này thường cần kỹ thuật cao hơn, tốn thời gian hơn và có thể có rủi ro cao hơn đường ngoại vi trong bối cảnh cấp cứu ban đầu. Do đó, chúng có thể "ít được chọn" hơn cho việc thiết lập ban đầu hoặc nếu đường ngoại vi đã thành công và đáp ứng được nhu cầu.
Lời giải:
Đáp án đúng: A
Câu hỏi yêu cầu xác định khuyến cáo KHÔNG có trong khuyến cáo của Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) về việc hạn chế nguy cơ nhiễm trùng vết mổ. Chúng ta cần phân tích từng phương án:
* Phương án 0: "Kháng sinh dự phòng nên được chỉ định thường qui trong trường hợp phẫu thuật sạch và sạch nhiễm." Theo khuyến cáo của WHO, kháng sinh dự phòng thường được cân nhắc cho các phẫu thuật sạch nhiễm, nhưng không phải là "thường qui" cho mọi trường hợp phẫu thuật sạch. Đối với phẫu thuật sạch, việc sử dụng kháng sinh dự phòng cần được cân nhắc kỹ lưỡng dựa trên các yếu tố nguy cơ của bệnh nhân và loại phẫu thuật.
* Phương án 1: "Kháng sinh dự phòng nên được sử dụng trong vòng 1 giờ trước khi rạch da với phổ kháng khuẩn có hiệu quả chống lại vi khuẩn có khả năng lây nhiễm liên quan đến phương pháp phẫu thuật." Đây là một khuyến cáo chuẩn của WHO về thời điểm và lựa chọn kháng sinh dự phòng.
* Phương án 2: "Nếu sử dụng Vancomycine truyền tĩnh mạch thì rạch da được thực hiện trong vòng 1 giờ sau khi kết thúc." Khuyến cáo của WHO thường nhấn mạnh việc truyền kháng sinh trước rạch da. Tuy nhiên, đối với Vancomycin, do thời gian bán thải dài, việc dùng trong vòng 2 giờ trước rạch da hoặc ngay sau khi kết thúc phẫu thuật cũng có thể được cân nhắc trong một số trường hợp, mặc dù việc sử dụng trước rạch da vẫn là ưu tiên. Tuy nhiên, so với phương án 0, phương án này có thể xem là một ngoại lệ hoặc điều chỉnh trong thực hành.
* Phương án 3: "Lập lại liều kháng sinh dự phòng khi phẫu thuật kéo dài quá 6 giờ hoặc có chảy nhiều máu trong phẫu thuật." Đây là một khuyến cáo rõ ràng và được chấp nhận rộng rãi của WHO về việc dùng lại kháng sinh dự phòng trong các tình huống phẫu thuật kéo dài hoặc mất máu nhiều.
Khi xem xét kỹ các khuyến cáo của WHO, phương án 0 là phát biểu ít tuân thủ nhất. WHO khuyến cáo sử dụng kháng sinh dự phòng cho các trường hợp phẫu thuật nhiễm khuẩn và sạch nhiễm, nhưng không phải là "thường qui" cho tất cả các phẫu thuật sạch. Do đó, khuyến cáo này không hoàn toàn chính xác theo tinh thần chung của WHO.
Đáp án đúng là 0.
* Phương án 0: "Kháng sinh dự phòng nên được chỉ định thường qui trong trường hợp phẫu thuật sạch và sạch nhiễm." Theo khuyến cáo của WHO, kháng sinh dự phòng thường được cân nhắc cho các phẫu thuật sạch nhiễm, nhưng không phải là "thường qui" cho mọi trường hợp phẫu thuật sạch. Đối với phẫu thuật sạch, việc sử dụng kháng sinh dự phòng cần được cân nhắc kỹ lưỡng dựa trên các yếu tố nguy cơ của bệnh nhân và loại phẫu thuật.
* Phương án 1: "Kháng sinh dự phòng nên được sử dụng trong vòng 1 giờ trước khi rạch da với phổ kháng khuẩn có hiệu quả chống lại vi khuẩn có khả năng lây nhiễm liên quan đến phương pháp phẫu thuật." Đây là một khuyến cáo chuẩn của WHO về thời điểm và lựa chọn kháng sinh dự phòng.
* Phương án 2: "Nếu sử dụng Vancomycine truyền tĩnh mạch thì rạch da được thực hiện trong vòng 1 giờ sau khi kết thúc." Khuyến cáo của WHO thường nhấn mạnh việc truyền kháng sinh trước rạch da. Tuy nhiên, đối với Vancomycin, do thời gian bán thải dài, việc dùng trong vòng 2 giờ trước rạch da hoặc ngay sau khi kết thúc phẫu thuật cũng có thể được cân nhắc trong một số trường hợp, mặc dù việc sử dụng trước rạch da vẫn là ưu tiên. Tuy nhiên, so với phương án 0, phương án này có thể xem là một ngoại lệ hoặc điều chỉnh trong thực hành.
* Phương án 3: "Lập lại liều kháng sinh dự phòng khi phẫu thuật kéo dài quá 6 giờ hoặc có chảy nhiều máu trong phẫu thuật." Đây là một khuyến cáo rõ ràng và được chấp nhận rộng rãi của WHO về việc dùng lại kháng sinh dự phòng trong các tình huống phẫu thuật kéo dài hoặc mất máu nhiều.
Khi xem xét kỹ các khuyến cáo của WHO, phương án 0 là phát biểu ít tuân thủ nhất. WHO khuyến cáo sử dụng kháng sinh dự phòng cho các trường hợp phẫu thuật nhiễm khuẩn và sạch nhiễm, nhưng không phải là "thường qui" cho tất cả các phẫu thuật sạch. Do đó, khuyến cáo này không hoàn toàn chính xác theo tinh thần chung của WHO.
Đáp án đúng là 0.
Lời giải:
Đáp án đúng: C
Câu hỏi kiểm tra kiến thức về quy trình báo động đỏ liên viện và người được SYT khuyến cáo là người có trách nhiệm kích hoạt quy trình này. Theo quy định và thông lệ trong ngành y tế, khi có tình huống cấp cứu nghiêm trọng cần huy động nguồn lực từ nhiều bệnh viện (báo động đỏ liên viện), người có thẩm quyền và trách nhiệm ra quyết định kích hoạt sớm nhất thường là người lãnh đạo trực tiếp hoặc người được ủy quyền tại bệnh viện nơi xảy ra sự cố. Trong các phương án đưa ra, "Bác sĩ trưởng kíp trực cấp cứu" là người đầu tiên tiếp nhận bệnh nhân, đánh giá mức độ nguy kịch và có khả năng nhanh chóng đưa ra quyết định ban đầu về việc cần huy động thêm sự trợ giúp, bao gồm cả việc báo động đỏ. Các phương án khác như Giám đốc bệnh viện, Trưởng phòng KHTH hay Trực lãnh đạo bệnh viện trong giờ trực thường là các cấp quản lý cao hơn, có thể tham gia vào việc phê duyệt hoặc điều phối sau khi nhận được thông tin ban đầu hoặc khi tình huống đã vượt quá khả năng xử lý của kíp trực. Tuy nhiên, để đảm bảo tính kịp thời của báo động đỏ, trách nhiệm ban đầu thường thuộc về người trực tiếp xử lý ca bệnh. Do đó, "Bác sĩ trưởng kíp trực cấp cứu" là người phù hợp nhất để được khuyến cáo kích hoạt quy trình này.
Lời giải:
Đáp án đúng: B
Câu hỏi kiểm tra kiến thức về quy định thực hiện các can thiệp sản khoa có nguy cơ cao. Theo quy định của pháp luật về khám bệnh, chữa bệnh và các quy chế chuyên môn y tế, các thủ thuật sản khoa có nguy cơ cao như đỡ sanh đặc biệt ngôi mông, giúp sanh bằng giác hút, kềm… đòi hỏi người thực hiện phải có chuyên môn vững vàng, được đào tạo bài bản và có chứng chỉ hành nghề hợp lệ. Do đó, phương án B là đáp án chính xác nhất vì chỉ bác sĩ và hộ sinh có chứng chỉ hành nghề theo quy định mới đủ thẩm quyền và năng lực để thực hiện các can thiệp này, đảm bảo an toàn tối đa cho người bệnh. Phương án A không đủ chi tiết về điều kiện chuyên môn, phương án C chỉ là phân công hành chính mà không xét đến năng lực chuyên môn cốt lõi, còn phương án D sai vì A và C không đủ điều kiện.
Lời giải:
Đáp án đúng: A
Câu hỏi kiểm tra kiến thức về thành phần nhân lực tối thiểu cần có cho mỗi ca phẫu thuật, tập trung vào các vị trí y tế chuyên môn. Để đảm bảo an toàn và hiệu quả cho ca phẫu thuật, ê-kíp gây mê - hồi sức là không thể thiếu. Bao gồm bác sĩ gây mê - hồi sức, điều dưỡng viên gây mê - hồi sức, điều dưỡng viên phụ trách dụng cụ và điều dưỡng viên vòng ngoài. Hộ lý có thể có vai trò hỗ trợ nhưng không phải là nhân lực tối thiểu bắt buộc cho mọi ca phẫu thuật theo quy định chuyên môn. Do đó, phương án A là đầy đủ nhất các vị trí y tế chuyên môn cần thiết.
Lời giải:
Bạn cần đăng ký gói VIP để làm bài, xem đáp án và lời giải chi tiết không giới hạn. Nâng cấp VIP
Lời giải:
Bạn cần đăng ký gói VIP để làm bài, xem đáp án và lời giải chi tiết không giới hạn. Nâng cấp VIP
Lời giải:
Bạn cần đăng ký gói VIP để làm bài, xem đáp án và lời giải chi tiết không giới hạn. Nâng cấp VIP
Lời giải:
Bạn cần đăng ký gói VIP để làm bài, xem đáp án và lời giải chi tiết không giới hạn. Nâng cấp VIP
Lời giải:
Bạn cần đăng ký gói VIP để làm bài, xem đáp án và lời giải chi tiết không giới hạn. Nâng cấp VIP

CEO.29: Bộ Tài Liệu Hệ Thống Quản Trị Doanh Nghiệp
628 tài liệu440 lượt tải

CEO.28: Bộ 100+ Tài Liệu Hướng Dẫn Xây Dựng Hệ Thống Thang, Bảng Lương
109 tài liệu762 lượt tải

CEO.27: Bộ Tài Liệu Dành Cho StartUp - Quản Lý Doanh Nghiệp Thời Đại 4.0
272 tài liệu981 lượt tải

CEO.26: Bộ Tài Liệu Dành Cho StartUp - Khởi Nghiệp Thời Đại 4.0
289 tài liệu690 lượt tải

CEO.25: Bộ Tài Liệu Ứng Dụng Công Nghệ Thông Tin và Thương Mại Điện Tử Trong Kinh Doanh
240 tài liệu1031 lượt tải

CEO.24: Bộ 240+ Tài Liệu Quản Trị Rủi Ro Doanh Nghiệp
249 tài liệu581 lượt tải
ĐĂNG KÝ GÓI THI VIP
- Truy cập hơn 100K đề thi thử và chính thức các năm
- 2M câu hỏi theo các mức độ: Nhận biết – Thông hiểu – Vận dụng
- Học nhanh với 10K Flashcard Tiếng Anh theo bộ sách và chủ đề
- Đầy đủ: Mầm non – Phổ thông (K12) – Đại học – Người đi làm
- Tải toàn bộ tài liệu trên TaiLieu.VN
- Loại bỏ quảng cáo để tăng khả năng tập trung ôn luyện
- Tặng 15 ngày khi đăng ký gói 3 tháng, 30 ngày với gói 6 tháng và 60 ngày với gói 12 tháng.
77.000 đ/ tháng