JavaScript is required

Xem xét một cổ phiếu không trả cổ tức đang giao dịch trên thị trường với gí 50.000 đồng. Giá một quyền chọn mua kiểu châu Âu và một quyền chọn bán kiểu châu Âu với cùng cổ phiếu cơ sở này, cùng giá thực hiện 50.000 đồng và cùng thời gian đáo hạn 6 tháng lần lượt là 4.000 đồng và 3.500 đồng. Lãi suất ph rủi ro gộp liên tục là 4%/năm. Độ biến động mức sinh lời của cổ phiếu là 25%/năm. Kết luận có thể rút ra từ những dữ liệu trên là

A.

Có cơ hội kinh doanh hạn chế chênh lệch giá (arbitrage) vì quyền chọn bán bị định giá thấp hơn giá trị

B.

Có cơ hội kinh doanh hạn chế chênh lệch giá (arbitrage) vì quyền chọn bán bị định giá cao hơn giá trị

C.

Chưa thể khẳng định được điều gì do chưa đủ thông tin

Trả lời:

Đáp án đúng: B


Để xác định xem có cơ hội kinh doanh chênh lệch giá (arbitrage) hay không, ta sử dụng quan hệ ngang giá quyền chọn mua-bán (put-call parity). Công thức là: C + PV(K) = P + S, trong đó: C là giá quyền chọn mua, P là giá quyền chọn bán, K là giá thực hiện, S là giá cổ phiếu hiện tại, PV(K) là giá trị hiện tại của giá thực hiện. Trong trường hợp này: C = 4.000, P = 3.500, S = 50.000, K = 50.000, và lãi suất phi rủi ro là 4%/năm trong 6 tháng (0,5 năm). PV(K) = 50.000 / e^(0.04 * 0.5) = 50.000 / e^(0.02) ≈ 50.000 / 1.0202 ≈ 49.010 đồng. Thay vào công thức: 4.000 + 49.010 = 3.500 + 50.000 => 53.010 = 53.500. Như vậy, vế trái nhỏ hơn vế phải. Điều này cho thấy quyền chọn mua đang bị định giá thấp hoặc quyền chọn bán đang bị định giá cao. Do đó, có cơ hội kinh doanh chênh lệch giá (arbitrage) vì quyền chọn bán bị định giá cao hơn giá trị.

Câu hỏi liên quan