Nhiễm toan chuyển hóa là tình trạng pH máu giảm do tăng acid hoặc mất base trong cơ thể.
A. Tăng lượng acid không bay hơi trong cơ thể: Đúng, vì sự tích tụ acid (không bay hơi như acid lactic, ketoacid) sẽ làm giảm pH máu, gây nhiễm toan chuyển hóa. B. Đào thải quá nhiều CO2 qua phổi: Sai, đào thải quá nhiều CO2 gây nhiễm kiềm hô hấp, làm tăng pH máu. C. Sản xuất quá mức chất base: Sai, sản xuất quá mức chất base sẽ làm tăng pH máu, gây nhiễm kiềm. D. Lượng CO2 trong cơ thể quá thấp: Sai, lượng CO2 thấp gây kiềm hô hấp, làm tăng pH máu.
Nhiễm toan chuyển hóa xảy ra khi có sự giảm lượng HCO3- (bicarbonate) trong cơ thể. HCO3- là một base quan trọng giúp duy trì cân bằng acid-base. Khi lượng HCO3- giảm, pH máu giảm, gây ra nhiễm toan.
Nhiễm kiềm chuyển hóa xảy ra khi có sự gia tăng bicarbonate (HCO3-) trong máu, dẫn đến tăng pH máu. Điều này có thể xảy ra do sản xuất quá mức chất base (ví dụ: do dùng thuốc lợi tiểu, nôn mửa nhiều gây mất acid, hoặc truyền bicarbonate) hoặc do mất acid quá mức. Do đó, phương án A là chính xác.
Phương án B sai vì tăng acid cố định sẽ gây nhiễm toan chuyển hóa.
Phương án C sai vì đào thải quá nhiều CO2 qua phổi sẽ gây nhiễm kiềm hô hấp.
Phương án D sai vì lượng CO2 trong cơ thể quá cao sẽ gây nhiễm toan hô hấp.
Nhiễm kiềm hô hấp xảy ra khi có sự giảm nồng độ CO2 trong máu (PaCO2) do tăng thông khí phế nang. Tăng thông khí phế nang dẫn đến đào thải quá nhiều CO2 qua phổi, làm giảm nồng độ acid carbonic (H2CO3) trong máu, từ đó làm tăng pH máu, gây ra nhiễm kiềm hô hấp.
Phương án A sai vì tăng acid cố định gây nhiễm toan. Phương án B sai vì mất acid không bay hơi (ví dụ như HCl) gây nhiễm kiềm chuyển hóa. Phương án D sai vì lượng CO2 cao gây nhiễm toan hô hấp.
Trong suy tim phải, tim phải không bơm máu hiệu quả, dẫn đến ứ trệ máu ở tĩnh mạch chủ và các tĩnh mạch hệ thống. Sự ứ trệ này làm tăng áp suất thủy tĩnh trong các mao mạch, đẩy dịch từ lòng mạch vào khoảng kẽ, gây phù.