Các tạng thường bị ảnh hưởng ở bệnh nhân viêm khớp dạng thấp có di chứng là:
A.
A. Tâm, tỳ, thận
B.
B. Tâm, can, thận
C.
C. Tâm, tỳ, thận
D.
D. Can, tỳ, thận
undefined.
E. Can, phế, thận
Trả lời:
Đáp án đúng: D
Theo y học cổ truyền, viêm khớp dạng thấp có di chứng thường ảnh hưởng đến các tạng Can, Tỳ, Thận. Can chủ về cân (gân cơ), Tỳ chủ về cơ nhục, và Thận chủ về cốt (xương). Bệnh lâu ngày có thể làm tổn thương các tạng này, gây ra các di chứng như đau nhức xương khớp, hạn chế vận động.
Viêm khớp dạng thấp là một bệnh tự miễn gây viêm khớp mãn tính. Để phòng bệnh này, việc luyện tập thân thể thường xuyên giúp tăng cường sức mạnh cơ bắp xung quanh khớp, cải thiện sự linh hoạt và giảm đau. Các lựa chọn khác như tắm ngay sau lao động, sinh hoạt chỗ ẩm thấp, ăn uống đồ mát lạnh và hạn chế vận động khớp đều có thể làm tăng nguy cơ hoặc làm trầm trọng thêm tình trạng viêm khớp.
Huyệt Can Du nằm ở ngang đốt sống lưng thứ 9 (D9). Để xác định huyệt này, ta tìm khe đốt sống D9-D10, sau đó đo ngang ra 1,5 thốn (khoảng 3 cm) từ đường giữa lưng.
Huyệt Côn Lôn nằm ở vị trí giữa gân gót và điểm cao nhất của mắt cá ngoài. Đây là một huyệt quan trọng trong châm cứu, được sử dụng để điều trị nhiều bệnh lý khác nhau, đặc biệt là các bệnh liên quan đến cột sống, thắt lưng và chi dưới.
Sao tẩm với gừng thường làm tăng tính ấm nóng của thuốc, có tác dụng tán hàn, ôn trung, chỉ nôn. Do đó, thuốc sau khi sao gừng thường có tính thăng (đi lên, hướng lên trên).
Khi bệnh nhân bị nôn mửa và ho suyễn, ta cần sử dụng thuốc có tính giáng. Thuốc có tính giáng sẽ giúp đưa khí nghịch lên xuống, làm giảm nôn mửa và ho suyễn. Các tính chất khác không phù hợp trong trường hợp này:
Trầm: Thường dùng cho các chứng bệnh hư hàn.
Phù: Thường dùng để điều trị các chứng bệnh phù thũng.
Thăng: Thường dùng để nâng khí, không phù hợp khi cần hạ khí nghịch.
Hòa hoãn: Có tác dụng điều hòa nhưng không trực tiếp giải quyết vấn đề nôn mửa và ho suyễn.