Sao tẩm với gừng thường làm tăng tính ấm nóng của thuốc, có tác dụng tán hàn, ôn trung, chỉ nôn. Do đó, thuốc sau khi sao gừng thường có tính thăng (đi lên, hướng lên trên).
Khi bệnh nhân bị nôn mửa và ho suyễn, ta cần sử dụng thuốc có tính giáng. Thuốc có tính giáng sẽ giúp đưa khí nghịch lên xuống, làm giảm nôn mửa và ho suyễn. Các tính chất khác không phù hợp trong trường hợp này:
Trầm: Thường dùng cho các chứng bệnh hư hàn.
Phù: Thường dùng để điều trị các chứng bệnh phù thũng.
Thăng: Thường dùng để nâng khí, không phù hợp khi cần hạ khí nghịch.
Hòa hoãn: Có tác dụng điều hòa nhưng không trực tiếp giải quyết vấn đề nôn mửa và ho suyễn.
Huyệt Dương Trì nằm ở cổ tay, giữa các gân duỗi ngón tay. Mô tả chính xác là nằm ở lằn chỉ cổ tay phía ngoài gân cơ duỗi chung ngón tay, bên trong gân duỗi riêng ngón út.
Huyệt Độc Tỵ nằm ở chỗ lõm phía dưới xương bánh chè, bờ ngoài dây chằng bánh chè. Huyệt Tất Nhãn (còn gọi là Ngoại Tất Nhãn) cũng nằm ở chỗ lõm dưới xương bánh chè nhưng ở bờ trong dây chằng bánh chè. Vì câu hỏi chỉ nói chung chung là "ở chỗ lõm đầu dưới trong xương bánh chè" nên huyệt Độc Tỵ (nằm ở bờ ngoài) vẫn đúng. Tuy nhiên, đáp án chính xác hơn phải là Tất Nhãn vì vị trí của nó nằm chính xác ở chỗ lõm.
Huyệt Ủy trung nằm ở chính giữa nếp lằn khoeo chân, khi co chân lại sẽ thấy rõ vị trí này. Vì vậy, đáp án chính xác là "Ở điểm giữa nếp lằn trám khoeo". Các đáp án khác mô tả vị trí chung chung hoặc không chính xác bằng.