Acid nalidixic, Ofloxacin và Lomefloxacin đều là các kháng sinh thuộc nhóm Quinolon (hoặc Fluoroquinolon). Minocyclin là một kháng sinh thuộc nhóm Tetracyclin. Do đó, Minocyclin không thuộc nhóm Quinolon.
Benzyl penicillin (penicillin G) là loại penicillin không bền trong môi trường acid của dạ dày, do đó không được hấp thu qua đường uống. Các loại penicillin khác như phenoxymethyl penicillin (penicillin V) có thể dùng đường uống. Ureido penicillin và amidino penicillin là các penicillin phổ rộng, thường dùng đường tiêm.
Tăng huyết áp là một bệnh lý phức tạp với nhiều cơ chế bệnh sinh khác nhau. Các yếu tố như tăng thể tích máu, cường giao cảm và tăng hoạt tính của hệ thống renin-angiotensin-aldosteron đều có thể góp phần vào sự phát triển của tăng huyết áp. Do đó, đáp án D (Cả 3 đáp án trên) là chính xác nhất vì nó bao gồm tất cả các yếu tố đã nêu.
Trên bệnh nhân tăng huyết áp có kèm đau thắt ngực, thuốc chẹn beta (chẹn chọn lọc B-1 adrenergic) là lựa chọn ưu tiên. Chúng làm giảm nhịp tim và sức co bóp của tim, từ đó giảm nhu cầu oxy của cơ tim và giảm các cơn đau thắt ngực. Các thuốc khác (ức chế men chuyển, lợi tiểu thiazid, chẹn kênh Ca DHP) có thể được sử dụng nhưng không phải là lựa chọn ưu tiên đầu tiên trong trường hợp này.
Viêm tiểu phế quản cấp ở trẻ em thường do virus gây ra. Corticoid không được khuyến cáo sử dụng thường quy trong điều trị viêm tiểu phế quản cấp ở trẻ em do không có bằng chứng rõ ràng về hiệu quả và có thể gây ra tác dụng phụ. Các nghiên cứu đã chỉ ra rằng corticoid không làm giảm thời gian nằm viện, không cải thiện triệu chứng hô hấp và có thể làm tăng nguy cơ mắc các bệnh nhiễm trùng khác. Do đó, không có đáp án nào trong số các lựa chọn trên là phù hợp để điều trị viêm tiểu phế quản cấp ở trẻ em.
Liệu pháp hormon, đặc biệt là liệu pháp estrogen, được sử dụng trong điều trị loãng xương có thể gây ra nhiều tác dụng không mong muốn. Các tác dụng này bao gồm tăng nguy cơ ung thư vú, tăng nguy cơ ung thư nội mạc tử cung và huyết khối. Vì vậy, đáp án đúng là cả 3 đáp án.