JavaScript is required
Danh sách đề

Đề thi minh họa vào lớp 10 môn Ngữ Văn năm 2025 - Đề 10

6 câu hỏi 60 phút

Thẻ ghi nhớ
Luyện tập
Thi thử
Nhấn để lật thẻ
1 / 6

Sinh ra ở đời, ai trong chúng ta cùng khao khát được sống hạnh phúc. Với lòng khao khát đó thúc giục, chúng ta đi kiếm tìm hạnh phúc. Hơn thế nữa, tự đáy lòng của con người luôn ước ao có được một cuộc sống bình an, vui tươi, không lo âu buồn phiền, không đau khổ oán than, muốn an hưởng sự may lành hơn là bất hạnh, giàu sang hơn là nghèo nàn. Để đạt được niềm khát vọng đó, người ta luôn tìm cho mình một lẽ sống cho cuộc đời, hay nói đúng hơn là một lí tưởng. Lí tưởng này sẽ hướng dẫn đời họ vượt qua mọi chông gai và can đảm chấp nhận mọi nghịch cảnh. Có một lí tưởng để theo đuổi, có một lẽ sống cho cuộc đời là niềm hạnh phúc lớn lao nhất của con người trên trần gian. Và phải chăng những người bất hạnh chính là những người không lí tưởng, sống không mục đích, và càng không biết mình sẽ đi về đâu? Phải sống có lí tưởng! Bạn có thể ra đi từ nhiều phía, theo những con đường khác nhau, nhưng cuối cùng mỗi người phải lựa chọn cho mình mục đích của cuộc sống. Bởi như Denis Diderot đã nói, bạn sẽ không làm được gì nếu bạn không có mục đích, bạn cũng không làm được gì vĩ đại nếu mục đích của bạn tầm thường.

(Trích tưởng sống từ những điều bình dị, Lệ Hằng)

Đoạn trích trên đã gợi cho em suy nghĩ gì về vai trò của lí tưởng đối với con người trong cuộc sống? Hãy viết bài văn trả lời câu hỏi trên

Đáp án
Đáp án đúng:

Danh sách câu hỏi:

Câu 1:

Sinh ra ở đời, ai trong chúng ta cùng khao khát được sống hạnh phúc. Với lòng khao khát đó thúc giục, chúng ta đi kiếm tìm hạnh phúc. Hơn thế nữa, tự đáy lòng của con người luôn ước ao có được một cuộc sống bình an, vui tươi, không lo âu buồn phiền, không đau khổ oán than, muốn an hưởng sự may lành hơn là bất hạnh, giàu sang hơn là nghèo nàn. Để đạt được niềm khát vọng đó, người ta luôn tìm cho mình một lẽ sống cho cuộc đời, hay nói đúng hơn là một lí tưởng. Lí tưởng này sẽ hướng dẫn đời họ vượt qua mọi chông gai và can đảm chấp nhận mọi nghịch cảnh. Có một lí tưởng để theo đuổi, có một lẽ sống cho cuộc đời là niềm hạnh phúc lớn lao nhất của con người trên trần gian. Và phải chăng những người bất hạnh chính là những người không lí tưởng, sống không mục đích, và càng không biết mình sẽ đi về đâu? Phải sống có lí tưởng! Bạn có thể ra đi từ nhiều phía, theo những con đường khác nhau, nhưng cuối cùng mỗi người phải lựa chọn cho mình mục đích của cuộc sống. Bởi như Denis Diderot đã nói, bạn sẽ không làm được gì nếu bạn không có mục đích, bạn cũng không làm được gì vĩ đại nếu mục đích của bạn tầm thường.

(Trích tưởng sống từ những điều bình dị, Lệ Hằng)

Đoạn trích trên đã gợi cho em suy nghĩ gì về vai trò của lí tưởng đối với con người trong cuộc sống? Hãy viết bài văn trả lời câu hỏi trên

Lời giải:
Đáp án đúng:

Câu 2:

Đọc văn bản sau:

CÁ VOI

Phạm Đình Hổ [1].

Ông Nguyễn Tông Trình làm Đốc thị tỉnh Nghệ An, lúc mới đến nhậm chức, có một con cá voi chết ở bờ biển, dài hơn một trăm thước, bề ngang cũng chừng bấy nhiêu, quan địa phương lên trình ông biết. Ông liền cùng với đồng liêu đến nơi làm bài văn tế. Vài năm sau, có một đồng tử, dung mạo đẹp đẽ, độ mười bốn mười lăm tuổi, mặc áo học trò, đến cửa nha môn hỏi thăm anh Nguyễn Tông Trình có ở trong nhà không. Người canh cửa đuổi đi, mắng Đứa trẻ con nào đó dám nói hỗn đến trưởng quan, không đi ngay thì ta đánh cho bây giờ!. Liễn rũ tay áo, cười mà rằng Ta nhớ bạn cố nhân nên chẳng quản xa xôi đến hỏi thăm, không gặp thì ta đi, làm gì mà hung hăng thế!

Người canh cửa lấy làm lạ, liền vào bẩm quan. Ông Trình chỉnh tề áo mũ, nghiêm trang ra đón, thì đồng tử đã đi xa rồi. Ông liền sai kẻ nha dịch chạy theo, cố mời trở lại. Vào ngồi yên đâu đấy, đồng tử cười bảo ông rằng Bấy lâu cách biệt, vẫn nhớ tới huynh ông, mà huynh ông không nhớ đến cố nhân ư?. Ông từ tạ, rồi bày rượu ngồi nói chuyện. Đồng tử bùi ngùi nói Tôi với anh đều ở trên thiên tào bị trích giáng. Anh thì sinh ra trên cõi đời, làm nên khoa giáp, không đến nỗi biến mất cái bản lai diện mục [2]. Không như tôi bị khiển trách, sinh ra làm loài cầm ngư, ở trong đám bụi hồng bể khổ, chỉ làm cho đời người thêm buồn bã mà thôi”. Hỏi kĩ thì đồng tử kể lại rằng Tôi lúc mới bị trích xuống thì làm chim khiếu, tinh khôn mà hót hay, gặp được anh chàng ăn chơi ở chốn đô thành bỏ ra món tiền lớn mua về, sớm tối làm cảnh, ví như ngọc củng bích[3]. Phải như thế đến hơn mười năm, lắm lúc muốn lột bỏ da lông mà thác đi cho rồi. Song nghĩ chưa được mưu kế gì. Một bữa kia, sổ lồng bay ra. Khi ấy, chủ nhân đang pha chè đãi khách, âm chuyên chén mẫu trị giá đến hàng trăm bạc. Tôi bay lên chỗ chiếu khách ngồi, nhảy nhót, sa ngay vào bộ chén, vỡ tan. Chủ nhân nổi giận lấy xe điếu đập chết. Song Thượng Đế bảo tôi bị trích giáng chưa mãn hạn, nên lại xuống làm kiếp cá voi. Được ba năm, tôi nghĩ mà tức giận ngục nhằn, mới nhân thủy trào ngoi lên bờ nằm phơi vây ra đấy mà chết. Khi ấy, anh cùng bạn đồng liêu đến thăm, làm văn tế tôi; hiềm rằng đôi đường u hiển khác nhau, không được cùng nhau nói chuyện. Đến khi đọc bài văn tế của anh, thì nghe ra linh cơ diệu tứ rất hay. Nay nhờ Thượng Đế cho mãn hạn trích giáng, được vào nơi hang núi tu hành để rồi lại bổ chức cũ. Tôi sắp được về chầu Thượng Đế, nên lại chơi cáo biết với cố nhân; ngày khác được gặp nhau ở nơi tử phủ thanh đô[4], cũng chẳng bao lâu nữa”. Ông nhân mời nghỉ lại chơi, hỏi về bước tiến trình của mình sau này thế nào, thì nhiều điều không chịu tiết lộ. Sớm hôm sau, đồng tử cáo biệt ra đi, ông chỉnh tề khăn áo, tiễn khỏi cửa, thì không thấy đâu nữa. Chẳng bao lâu sau, ông cũng mất tại chức.

(Trích “Vũ trung tùy bút” của Phạm Đình Hổ)

Chú thích

1. Phạm Đình Hổ sinh năm Mậu Tý (1768), nguyên quán tại hương Đan Loan, huyện Đường An, phủ Thượng Hồng, trấn Hải Dương (nay thuộc xã Nhân Quyền, huyện Bình Giang, tỉnh Hải Dương). Ông là ấm sinh của một vọng tộc khoa hoạn. Ấu thơ, Phạm Đình Hổ đã tỏ chí: Nam nhi phải lập thân hành đạo ... Lấy văn thơ nổi tiếng ở đời ...[1].Từ khi lên 9 tuổi, ông học và đọc nhiều Hán thư, nhưng ông chỉ đỗ đến sinh đồ cuối thời Chiêu Thống.

2. Ý nói vẫn giữ được diện mạo cũ của mình.

3.ng nghĩa là vốc tay, ngọc củng bích là hạt ngọc to bằng vốc tay, ý nói quí giá lắm.

4. Chốn cung đình của Thượng Đế.


Xác định ngôi kể trong văn bản trên
Lời giải:
Đáp án đúng:

Câu 3:

Đọc văn bản sau:

CÁ VOI

Phạm Đình Hổ [1].

Ông Nguyễn Tông Trình làm Đốc thị tỉnh Nghệ An, lúc mới đến nhậm chức, có một con cá voi chết ở bờ biển, dài hơn một trăm thước, bề ngang cũng chừng bấy nhiêu, quan địa phương lên trình ông biết. Ông liền cùng với đồng liêu đến nơi làm bài văn tế. Vài năm sau, có một đồng tử, dung mạo đẹp đẽ, độ mười bốn mười lăm tuổi, mặc áo học trò, đến cửa nha môn hỏi thăm anh Nguyễn Tông Trình có ở trong nhà không. Người canh cửa đuổi đi, mắng Đứa trẻ con nào đó dám nói hỗn đến trưởng quan, không đi ngay thì ta đánh cho bây giờ!. Liễn rũ tay áo, cười mà rằng Ta nhớ bạn cố nhân nên chẳng quản xa xôi đến hỏi thăm, không gặp thì ta đi, làm gì mà hung hăng thế!

Người canh cửa lấy làm lạ, liền vào bẩm quan. Ông Trình chỉnh tề áo mũ, nghiêm trang ra đón, thì đồng tử đã đi xa rồi. Ông liền sai kẻ nha dịch chạy theo, cố mời trở lại. Vào ngồi yên đâu đấy, đồng tử cười bảo ông rằng Bấy lâu cách biệt, vẫn nhớ tới huynh ông, mà huynh ông không nhớ đến cố nhân ư?. Ông từ tạ, rồi bày rượu ngồi nói chuyện. Đồng tử bùi ngùi nói Tôi với anh đều ở trên thiên tào bị trích giáng. Anh thì sinh ra trên cõi đời, làm nên khoa giáp, không đến nỗi biến mất cái bản lai diện mục [2]. Không như tôi bị khiển trách, sinh ra làm loài cầm ngư, ở trong đám bụi hồng bể khổ, chỉ làm cho đời người thêm buồn bã mà thôi”. Hỏi kĩ thì đồng tử kể lại rằng Tôi lúc mới bị trích xuống thì làm chim khiếu, tinh khôn mà hót hay, gặp được anh chàng ăn chơi ở chốn đô thành bỏ ra món tiền lớn mua về, sớm tối làm cảnh, ví như ngọc củng bích[3]. Phải như thế đến hơn mười năm, lắm lúc muốn lột bỏ da lông mà thác đi cho rồi. Song nghĩ chưa được mưu kế gì. Một bữa kia, sổ lồng bay ra. Khi ấy, chủ nhân đang pha chè đãi khách, âm chuyên chén mẫu trị giá đến hàng trăm bạc. Tôi bay lên chỗ chiếu khách ngồi, nhảy nhót, sa ngay vào bộ chén, vỡ tan. Chủ nhân nổi giận lấy xe điếu đập chết. Song Thượng Đế bảo tôi bị trích giáng chưa mãn hạn, nên lại xuống làm kiếp cá voi. Được ba năm, tôi nghĩ mà tức giận ngục nhằn, mới nhân thủy trào ngoi lên bờ nằm phơi vây ra đấy mà chết. Khi ấy, anh cùng bạn đồng liêu đến thăm, làm văn tế tôi; hiềm rằng đôi đường u hiển khác nhau, không được cùng nhau nói chuyện. Đến khi đọc bài văn tế của anh, thì nghe ra linh cơ diệu tứ rất hay. Nay nhờ Thượng Đế cho mãn hạn trích giáng, được vào nơi hang núi tu hành để rồi lại bổ chức cũ. Tôi sắp được về chầu Thượng Đế, nên lại chơi cáo biết với cố nhân; ngày khác được gặp nhau ở nơi tử phủ thanh đô[4], cũng chẳng bao lâu nữa”. Ông nhân mời nghỉ lại chơi, hỏi về bước tiến trình của mình sau này thế nào, thì nhiều điều không chịu tiết lộ. Sớm hôm sau, đồng tử cáo biệt ra đi, ông chỉnh tề khăn áo, tiễn khỏi cửa, thì không thấy đâu nữa. Chẳng bao lâu sau, ông cũng mất tại chức.

(Trích “Vũ trung tùy bút” của Phạm Đình Hổ)

Chú thích

1. Phạm Đình Hổ sinh năm Mậu Tý (1768), nguyên quán tại hương Đan Loan, huyện Đường An, phủ Thượng Hồng, trấn Hải Dương (nay thuộc xã Nhân Quyền, huyện Bình Giang, tỉnh Hải Dương). Ông là ấm sinh của một vọng tộc khoa hoạn. Ấu thơ, Phạm Đình Hổ đã tỏ chí: Nam nhi phải lập thân hành đạo ... Lấy văn thơ nổi tiếng ở đời ...[1].Từ khi lên 9 tuổi, ông học và đọc nhiều Hán thư, nhưng ông chỉ đỗ đến sinh đồ cuối thời Chiêu Thống.

2. Ý nói vẫn giữ được diện mạo cũ của mình.

3.ng nghĩa là vốc tay, ngọc củng bích là hạt ngọc to bằng vốc tay, ý nói quí giá lắm.

4. Chốn cung đình của Thượng Đế.


Tìm lời dẫn trong đoạn 1 của văn bản, cho biết lời dẫn đó được dẫn theo cách nào?
Lời giải:
Đáp án đúng:

Câu 4:

Đọc văn bản sau:

CÁ VOI

Phạm Đình Hổ [1].

Ông Nguyễn Tông Trình làm Đốc thị tỉnh Nghệ An, lúc mới đến nhậm chức, có một con cá voi chết ở bờ biển, dài hơn một trăm thước, bề ngang cũng chừng bấy nhiêu, quan địa phương lên trình ông biết. Ông liền cùng với đồng liêu đến nơi làm bài văn tế. Vài năm sau, có một đồng tử, dung mạo đẹp đẽ, độ mười bốn mười lăm tuổi, mặc áo học trò, đến cửa nha môn hỏi thăm anh Nguyễn Tông Trình có ở trong nhà không. Người canh cửa đuổi đi, mắng Đứa trẻ con nào đó dám nói hỗn đến trưởng quan, không đi ngay thì ta đánh cho bây giờ!. Liễn rũ tay áo, cười mà rằng Ta nhớ bạn cố nhân nên chẳng quản xa xôi đến hỏi thăm, không gặp thì ta đi, làm gì mà hung hăng thế!

Người canh cửa lấy làm lạ, liền vào bẩm quan. Ông Trình chỉnh tề áo mũ, nghiêm trang ra đón, thì đồng tử đã đi xa rồi. Ông liền sai kẻ nha dịch chạy theo, cố mời trở lại. Vào ngồi yên đâu đấy, đồng tử cười bảo ông rằng Bấy lâu cách biệt, vẫn nhớ tới huynh ông, mà huynh ông không nhớ đến cố nhân ư?. Ông từ tạ, rồi bày rượu ngồi nói chuyện. Đồng tử bùi ngùi nói Tôi với anh đều ở trên thiên tào bị trích giáng. Anh thì sinh ra trên cõi đời, làm nên khoa giáp, không đến nỗi biến mất cái bản lai diện mục [2]. Không như tôi bị khiển trách, sinh ra làm loài cầm ngư, ở trong đám bụi hồng bể khổ, chỉ làm cho đời người thêm buồn bã mà thôi”. Hỏi kĩ thì đồng tử kể lại rằng Tôi lúc mới bị trích xuống thì làm chim khiếu, tinh khôn mà hót hay, gặp được anh chàng ăn chơi ở chốn đô thành bỏ ra món tiền lớn mua về, sớm tối làm cảnh, ví như ngọc củng bích[3]. Phải như thế đến hơn mười năm, lắm lúc muốn lột bỏ da lông mà thác đi cho rồi. Song nghĩ chưa được mưu kế gì. Một bữa kia, sổ lồng bay ra. Khi ấy, chủ nhân đang pha chè đãi khách, âm chuyên chén mẫu trị giá đến hàng trăm bạc. Tôi bay lên chỗ chiếu khách ngồi, nhảy nhót, sa ngay vào bộ chén, vỡ tan. Chủ nhân nổi giận lấy xe điếu đập chết. Song Thượng Đế bảo tôi bị trích giáng chưa mãn hạn, nên lại xuống làm kiếp cá voi. Được ba năm, tôi nghĩ mà tức giận ngục nhằn, mới nhân thủy trào ngoi lên bờ nằm phơi vây ra đấy mà chết. Khi ấy, anh cùng bạn đồng liêu đến thăm, làm văn tế tôi; hiềm rằng đôi đường u hiển khác nhau, không được cùng nhau nói chuyện. Đến khi đọc bài văn tế của anh, thì nghe ra linh cơ diệu tứ rất hay. Nay nhờ Thượng Đế cho mãn hạn trích giáng, được vào nơi hang núi tu hành để rồi lại bổ chức cũ. Tôi sắp được về chầu Thượng Đế, nên lại chơi cáo biết với cố nhân; ngày khác được gặp nhau ở nơi tử phủ thanh đô[4], cũng chẳng bao lâu nữa”. Ông nhân mời nghỉ lại chơi, hỏi về bước tiến trình của mình sau này thế nào, thì nhiều điều không chịu tiết lộ. Sớm hôm sau, đồng tử cáo biệt ra đi, ông chỉnh tề khăn áo, tiễn khỏi cửa, thì không thấy đâu nữa. Chẳng bao lâu sau, ông cũng mất tại chức.

(Trích “Vũ trung tùy bút” của Phạm Đình Hổ)

Chú thích

1. Phạm Đình Hổ sinh năm Mậu Tý (1768), nguyên quán tại hương Đan Loan, huyện Đường An, phủ Thượng Hồng, trấn Hải Dương (nay thuộc xã Nhân Quyền, huyện Bình Giang, tỉnh Hải Dương). Ông là ấm sinh của một vọng tộc khoa hoạn. Ấu thơ, Phạm Đình Hổ đã tỏ chí: Nam nhi phải lập thân hành đạo ... Lấy văn thơ nổi tiếng ở đời ...[1].Từ khi lên 9 tuổi, ông học và đọc nhiều Hán thư, nhưng ông chỉ đỗ đến sinh đồ cuối thời Chiêu Thống.

2. Ý nói vẫn giữ được diện mạo cũ của mình.

3.ng nghĩa là vốc tay, ngọc củng bích là hạt ngọc to bằng vốc tay, ý nói quí giá lắm.

4. Chốn cung đình của Thượng Đế.


Tìm và phân tích tác dụng của một yếu tố kì ảo trong văn bản trên?
Lời giải:
Đáp án đúng:

Câu 5:

Đọc văn bản sau:

CÁ VOI

Phạm Đình Hổ [1].

Ông Nguyễn Tông Trình làm Đốc thị tỉnh Nghệ An, lúc mới đến nhậm chức, có một con cá voi chết ở bờ biển, dài hơn một trăm thước, bề ngang cũng chừng bấy nhiêu, quan địa phương lên trình ông biết. Ông liền cùng với đồng liêu đến nơi làm bài văn tế. Vài năm sau, có một đồng tử, dung mạo đẹp đẽ, độ mười bốn mười lăm tuổi, mặc áo học trò, đến cửa nha môn hỏi thăm anh Nguyễn Tông Trình có ở trong nhà không. Người canh cửa đuổi đi, mắng Đứa trẻ con nào đó dám nói hỗn đến trưởng quan, không đi ngay thì ta đánh cho bây giờ!. Liễn rũ tay áo, cười mà rằng Ta nhớ bạn cố nhân nên chẳng quản xa xôi đến hỏi thăm, không gặp thì ta đi, làm gì mà hung hăng thế!

Người canh cửa lấy làm lạ, liền vào bẩm quan. Ông Trình chỉnh tề áo mũ, nghiêm trang ra đón, thì đồng tử đã đi xa rồi. Ông liền sai kẻ nha dịch chạy theo, cố mời trở lại. Vào ngồi yên đâu đấy, đồng tử cười bảo ông rằng Bấy lâu cách biệt, vẫn nhớ tới huynh ông, mà huynh ông không nhớ đến cố nhân ư?. Ông từ tạ, rồi bày rượu ngồi nói chuyện. Đồng tử bùi ngùi nói Tôi với anh đều ở trên thiên tào bị trích giáng. Anh thì sinh ra trên cõi đời, làm nên khoa giáp, không đến nỗi biến mất cái bản lai diện mục [2]. Không như tôi bị khiển trách, sinh ra làm loài cầm ngư, ở trong đám bụi hồng bể khổ, chỉ làm cho đời người thêm buồn bã mà thôi”. Hỏi kĩ thì đồng tử kể lại rằng Tôi lúc mới bị trích xuống thì làm chim khiếu, tinh khôn mà hót hay, gặp được anh chàng ăn chơi ở chốn đô thành bỏ ra món tiền lớn mua về, sớm tối làm cảnh, ví như ngọc củng bích[3]. Phải như thế đến hơn mười năm, lắm lúc muốn lột bỏ da lông mà thác đi cho rồi. Song nghĩ chưa được mưu kế gì. Một bữa kia, sổ lồng bay ra. Khi ấy, chủ nhân đang pha chè đãi khách, âm chuyên chén mẫu trị giá đến hàng trăm bạc. Tôi bay lên chỗ chiếu khách ngồi, nhảy nhót, sa ngay vào bộ chén, vỡ tan. Chủ nhân nổi giận lấy xe điếu đập chết. Song Thượng Đế bảo tôi bị trích giáng chưa mãn hạn, nên lại xuống làm kiếp cá voi. Được ba năm, tôi nghĩ mà tức giận ngục nhằn, mới nhân thủy trào ngoi lên bờ nằm phơi vây ra đấy mà chết. Khi ấy, anh cùng bạn đồng liêu đến thăm, làm văn tế tôi; hiềm rằng đôi đường u hiển khác nhau, không được cùng nhau nói chuyện. Đến khi đọc bài văn tế của anh, thì nghe ra linh cơ diệu tứ rất hay. Nay nhờ Thượng Đế cho mãn hạn trích giáng, được vào nơi hang núi tu hành để rồi lại bổ chức cũ. Tôi sắp được về chầu Thượng Đế, nên lại chơi cáo biết với cố nhân; ngày khác được gặp nhau ở nơi tử phủ thanh đô[4], cũng chẳng bao lâu nữa”. Ông nhân mời nghỉ lại chơi, hỏi về bước tiến trình của mình sau này thế nào, thì nhiều điều không chịu tiết lộ. Sớm hôm sau, đồng tử cáo biệt ra đi, ông chỉnh tề khăn áo, tiễn khỏi cửa, thì không thấy đâu nữa. Chẳng bao lâu sau, ông cũng mất tại chức.

(Trích “Vũ trung tùy bút” của Phạm Đình Hổ)

Chú thích

1. Phạm Đình Hổ sinh năm Mậu Tý (1768), nguyên quán tại hương Đan Loan, huyện Đường An, phủ Thượng Hồng, trấn Hải Dương (nay thuộc xã Nhân Quyền, huyện Bình Giang, tỉnh Hải Dương). Ông là ấm sinh của một vọng tộc khoa hoạn. Ấu thơ, Phạm Đình Hổ đã tỏ chí: Nam nhi phải lập thân hành đạo ... Lấy văn thơ nổi tiếng ở đời ...[1].Từ khi lên 9 tuổi, ông học và đọc nhiều Hán thư, nhưng ông chỉ đỗ đến sinh đồ cuối thời Chiêu Thống.

2. Ý nói vẫn giữ được diện mạo cũ của mình.

3.ng nghĩa là vốc tay, ngọc củng bích là hạt ngọc to bằng vốc tay, ý nói quí giá lắm.

4. Chốn cung đình của Thượng Đế.


Từ văn bản trên, em hãy rút ra một thông điệp có ý nghĩa với bản thân.

Lời giải:
Đáp án đúng:

Câu 6:

Đọc văn bản sau:

CÁ VOI

Phạm Đình Hổ [1].

Ông Nguyễn Tông Trình làm Đốc thị tỉnh Nghệ An, lúc mới đến nhậm chức, có một con cá voi chết ở bờ biển, dài hơn một trăm thước, bề ngang cũng chừng bấy nhiêu, quan địa phương lên trình ông biết. Ông liền cùng với đồng liêu đến nơi làm bài văn tế. Vài năm sau, có một đồng tử, dung mạo đẹp đẽ, độ mười bốn mười lăm tuổi, mặc áo học trò, đến cửa nha môn hỏi thăm anh Nguyễn Tông Trình có ở trong nhà không. Người canh cửa đuổi đi, mắng Đứa trẻ con nào đó dám nói hỗn đến trưởng quan, không đi ngay thì ta đánh cho bây giờ!. Liễn rũ tay áo, cười mà rằng Ta nhớ bạn cố nhân nên chẳng quản xa xôi đến hỏi thăm, không gặp thì ta đi, làm gì mà hung hăng thế!

Người canh cửa lấy làm lạ, liền vào bẩm quan. Ông Trình chỉnh tề áo mũ, nghiêm trang ra đón, thì đồng tử đã đi xa rồi. Ông liền sai kẻ nha dịch chạy theo, cố mời trở lại. Vào ngồi yên đâu đấy, đồng tử cười bảo ông rằng Bấy lâu cách biệt, vẫn nhớ tới huynh ông, mà huynh ông không nhớ đến cố nhân ư?. Ông từ tạ, rồi bày rượu ngồi nói chuyện. Đồng tử bùi ngùi nói Tôi với anh đều ở trên thiên tào bị trích giáng. Anh thì sinh ra trên cõi đời, làm nên khoa giáp, không đến nỗi biến mất cái bản lai diện mục [2]. Không như tôi bị khiển trách, sinh ra làm loài cầm ngư, ở trong đám bụi hồng bể khổ, chỉ làm cho đời người thêm buồn bã mà thôi”. Hỏi kĩ thì đồng tử kể lại rằng Tôi lúc mới bị trích xuống thì làm chim khiếu, tinh khôn mà hót hay, gặp được anh chàng ăn chơi ở chốn đô thành bỏ ra món tiền lớn mua về, sớm tối làm cảnh, ví như ngọc củng bích[3]. Phải như thế đến hơn mười năm, lắm lúc muốn lột bỏ da lông mà thác đi cho rồi. Song nghĩ chưa được mưu kế gì. Một bữa kia, sổ lồng bay ra. Khi ấy, chủ nhân đang pha chè đãi khách, âm chuyên chén mẫu trị giá đến hàng trăm bạc. Tôi bay lên chỗ chiếu khách ngồi, nhảy nhót, sa ngay vào bộ chén, vỡ tan. Chủ nhân nổi giận lấy xe điếu đập chết. Song Thượng Đế bảo tôi bị trích giáng chưa mãn hạn, nên lại xuống làm kiếp cá voi. Được ba năm, tôi nghĩ mà tức giận ngục nhằn, mới nhân thủy trào ngoi lên bờ nằm phơi vây ra đấy mà chết. Khi ấy, anh cùng bạn đồng liêu đến thăm, làm văn tế tôi; hiềm rằng đôi đường u hiển khác nhau, không được cùng nhau nói chuyện. Đến khi đọc bài văn tế của anh, thì nghe ra linh cơ diệu tứ rất hay. Nay nhờ Thượng Đế cho mãn hạn trích giáng, được vào nơi hang núi tu hành để rồi lại bổ chức cũ. Tôi sắp được về chầu Thượng Đế, nên lại chơi cáo biết với cố nhân; ngày khác được gặp nhau ở nơi tử phủ thanh đô[4], cũng chẳng bao lâu nữa”. Ông nhân mời nghỉ lại chơi, hỏi về bước tiến trình của mình sau này thế nào, thì nhiều điều không chịu tiết lộ. Sớm hôm sau, đồng tử cáo biệt ra đi, ông chỉnh tề khăn áo, tiễn khỏi cửa, thì không thấy đâu nữa. Chẳng bao lâu sau, ông cũng mất tại chức.

(Trích “Vũ trung tùy bút” của Phạm Đình Hổ)

Chú thích

1. Phạm Đình Hổ sinh năm Mậu Tý (1768), nguyên quán tại hương Đan Loan, huyện Đường An, phủ Thượng Hồng, trấn Hải Dương (nay thuộc xã Nhân Quyền, huyện Bình Giang, tỉnh Hải Dương). Ông là ấm sinh của một vọng tộc khoa hoạn. Ấu thơ, Phạm Đình Hổ đã tỏ chí: Nam nhi phải lập thân hành đạo ... Lấy văn thơ nổi tiếng ở đời ...[1].Từ khi lên 9 tuổi, ông học và đọc nhiều Hán thư, nhưng ông chỉ đỗ đến sinh đồ cuối thời Chiêu Thống.

2. Ý nói vẫn giữ được diện mạo cũ của mình.

3.ng nghĩa là vốc tay, ngọc củng bích là hạt ngọc to bằng vốc tay, ý nói quí giá lắm.

4. Chốn cung đình của Thượng Đế.


Viết đoạn văn (200 chữ) phân tích một nét đặc sắc về hình thức nghệ thuật (cốt truyện, cách xây dựng nhân vật, chi tiết tiêu biểu,…) của văn bản trên
Lời giải:
Bạn cần đăng ký gói VIP để làm bài, xem đáp án và lời giải chi tiết không giới hạn. Nâng cấp VIP