Các dược liệu phát tán phong hàn chủ yếu được sử dụng để điều trị các chứng bệnh do phong hàn xâm nhập vào cơ thể, gây ra các triệu chứng như: cảm lạnh, sốt nhẹ, đau đầu, nghẹt mũi, ho, đau nhức cơ thể. Như vậy, các tính chất thường thấy của dược liệu phát tán phong hàn là giải cảm, giảm đau, hạ sốt. Trị ho hen do đau nhức cơ không phải là công dụng chính của dược liệu phát tán phong hàn.
Nhóm thuốc ôn trung tán hàn có tác dụng làm ấm tỳ vị, trừ hàn. Các vị thuốc như Nhục quế, Gừng khô có tính ấm nóng, giúp làm ấm cơ thể, tán hàn. Bạch truật có tác dụng kiện tỳ, táo thấp, chỉ tả, lợi thủy, thường được dùng trong các trường hợp tỳ hư, ăn kém, tiêu chảy. Hương phụ có tác dụng hành khí giải uất, điều kinh, chỉ thống. Do đó, Bạch truật và Hương phụ không thuộc nhóm ôn trung tán hàn.
Viễn chí chứa saponin triterpenoid, có tác dụng long đờm, tiêu viêm, kháng khuẩn. Do đó, thành phần hóa học chủ yếu có tác dụng hóa đờm của Viễn chí là saponin.
Theo học thuyết ngũ hành trong y học cổ truyền, tạng Tâm thuộc hành Hỏa. Các tạng khác tương ứng với các hành khác nhau, ví dụ như tạng Can thuộc hành Mộc, tạng Tỳ thuộc hành Thổ, tạng Phế thuộc hành Kim và tạng Thận thuộc hành Thủy. Màu xanh thường được liên kết với hành Mộc. Tình chí buồn thường liên quan đến tạng Phế thuộc hành Kim. Phủ Đởm thuộc hành Mộc.
Trong ngũ hành, tương khắc là mối quan hệ mà một hành làm suy yếu hoặc tiêu diệt hành khác. Thứ tự tương khắc là: Mộc khắc Thổ, Thổ khắc Thủy, Thủy khắc Hỏa, Hỏa khắc Kim, Kim khắc Mộc. Như vậy, Hỏa khắc Kim.