PHP chịu ảnh hưởng lớn từ cú pháp của ngôn ngữ C. Nhiều cấu trúc điều khiển (if, else, for, while...), toán tử, và cách tổ chức code trong PHP tương tự như C.
PHP là ngôn ngữ kịch bản phía máy chủ, cho phép nhúng mã vào trong các tệp HTML. Mã PHP sẽ được thực thi trên máy chủ, và kết quả trả về sẽ được chèn vào trong trang HTML trước khi gửi đến trình duyệt của người dùng. Vì vậy, mã PHP có thể được đặt ở bất kỳ đâu trong tệp HTML, miễn là nó nằm giữa các thẻ <?php ?>.
Đoạn mã PHP sử dụng hàm `substr()` để trích xuất chuỗi con từ chuỗi gốc "abcdef".
- `$rest = substr("abcdef", -1);` trích xuất chuỗi con bắt đầu từ vị trí -1 (vị trí cuối cùng) của chuỗi "abcdef". Vị trí -1 tương ứng với ký tự 'f'. Vậy `$rest` sẽ nhận giá trị "f".
- `$rest = substr("abcdef", 0, -1);` trích xuất chuỗi con bắt đầu từ vị trí 0 (vị trí đầu tiên) của chuỗi "abcdef" và kết thúc ở vị trí -1 (vị trí cuối cùng). Tham số thứ ba là độ dài chuỗi con cần trích xuất. Khi độ dài này là số âm, nó đại diện cho số ký tự *từ cuối chuỗi trở về*. Vì vậy, kết quả là chuỗi "abcde".
Vậy kết quả trả về của đoạn script là "f,abcde".
Đoạn code PHP này tạo một mảng `$x` với hai phần tử, trong đó các khóa là 2 và 7, và các giá trị tương ứng là "mouse" và "keyboard".
Hàm `array_keys($x)` trả về một mảng mới `$y` chứa tất cả các khóa của mảng `$x`. Do đó, `$y` sẽ là một mảng có dạng `$y = array(0 => 2, 1 => 7)`.
Lệnh `echo $y[1]` in ra phần tử có chỉ số 1 của mảng `$y`, tức là giá trị 7.
Kiểu boolean là một kiểu dữ liệu logic, chỉ có hai giá trị: true (đúng) hoặc false (sai). Nó thường được sử dụng để biểu diễn trạng thái đúng/sai, có/không, hoặc bật/tắt. Các ngôn ngữ lập trình sử dụng kiểu boolean để thực hiện các phép toán logic và điều khiển luồng chương trình.