Hình vẽ bên là kiểu giản đồ hai nguyên tố loại mấy?
A.
Loại 4
B.
Loại 2
C.
Loại 1
D.
Loại 3
Trả lời:
Đáp án đúng: C
Dựa vào hình dạng giản đồ, ta thấy đây là giản đồ hai nguyên tố loại 1. Giản đồ loại 1 thường biểu diễn sự hòa tan hoàn toàn của hai kim loại ở cả trạng thái lỏng và trạng thái rắn.
Biến dạng nóng xảy ra ở nhiệt độ cao hơn nhiệt độ kết tinh lại của vật liệu. Ở nhiệt độ này, các khuyết tật mạng tinh thể dễ dàng di chuyển và sắp xếp lại, giúp vật liệu biến dạng dẻo tốt hơn và không bị cứng nguội. Các lựa chọn khác không chính xác bằng vì chúng không chỉ rõ mối quan hệ với nhiệt độ kết tinh lại hoặc quá chung chung (ví dụ: "ở nhiệt độ cao").
Kích thước hạt của vật đúc phụ thuộc vào tốc độ nguội của kim loại lỏng. Khuôn kim loại (KKL) có khả năng dẫn nhiệt tốt hơn khuôn cát (KC), do đó kim loại lỏng trong KKL nguội nhanh hơn so với KC. Khi tốc độ nguội nhanh, số lượng mầm kết tinh tăng lên, dẫn đến kích thước hạt nhỏ hơn. Vì vậy, vật đúc từ KKL có kích thước hạt nhỏ hơn so với vật đúc từ KC.
Hàn giáp mối, còn được gọi là hàn đường, là phương pháp hàn mà các chi tiết được liên kết với nhau dọc theo một đường thẳng hoặc đường cong liên tục. Các phương án khác không phải là tên gọi khác của hàn giáp mối. - Hàn điểm là phương pháp hàn tại các điểm rời rạc. - Hàn đối đầu là phương pháp hàn mà hai chi tiết được đặt đối diện nhau và hàn. - Hàn nóng chảy là một quá trình hàn sử dụng nhiệt để làm nóng chảy kim loại cơ bản và kim loại phụ (nếu có) để tạo thành mối hàn.
Gang được phân thành hai loại chính là gang trắng và gang graphit dựa trên tổ chức tế vi của chúng. Tổ chức tế vi đề cập đến cấu trúc hiển vi của vật liệu, bao gồm hình dạng, kích thước và sự phân bố của các pha khác nhau có trong vật liệu. Trong trường hợp gang, tổ chức tế vi chủ yếu được xác định bởi sự hiện diện và hình dạng của graphit (cacbon ở dạng tự do). Gang trắng có cacbon ở dạng cementit (Fe3C), trong khi gang graphit có cacbon ở dạng graphit tự do (thường ở dạng tấm hoặc cầu). Do đó, đáp án C là chính xác.
Trong khoảng nhiệt độ từ 911°C đến 1392°C, sắt tồn tại ở pha austenite (γ-Fe) và có cấu trúc tinh thể là lập phương tâm diện (FCC - Face Centered Cubic). Cấu trúc này có các nguyên tử sắt nằm ở các góc của hình lập phương và ở tâm của mỗi mặt của hình lập phương.