Hệ số phẩm cấp BQ thường được sử dụng để đánh giá chất lượng hoặc hiệu suất. Giá trị của nó thường nhỏ hơn hoặc bằng 1, thể hiện mức độ đáp ứng hoặc tuân thủ so với một tiêu chuẩn hoặc mục tiêu.
Đơn giá bình quân (BQ) sản phẩm tăng lên cho thấy giá trị trung bình của các sản phẩm bán ra cao hơn so với kế hoạch. Điều này có nghĩa là tỷ trọng các sản phẩm có chất lượng cao (và do đó giá cao hơn) trong tổng sản lượng đã tăng lên, hoặc các sản phẩm có chất lượng thấp (giá thấp) giảm xuống. Vì vậy, chất lượng sản phẩm kỳ thực hiện tốt hơn so với kỳ kế hoạch.
Chỉ tiêu "Mức chênh lệch về giá trị tiêu thụ" được sử dụng để đánh giá khái quát kết quả hoạt động tiêu thụ của doanh nghiệp. Nó cho biết sự thay đổi trong doanh thu hoặc giá trị hàng hóa dịch vụ bán ra trong một kỳ so với kỳ gốc hoặc kỳ kế hoạch. Các phương án khác không phù hợp vì chúng tập trung vào phân tích chi tiết theo mặt hàng hoặc yếu tố thị trường, thay vì đánh giá tổng quan.
Chỉ tiêu "Tỷ lệ hoàn thành kế hoạch tiêu thụ mặt hàng" đo lường mức độ đạt được so với kế hoạch đã đề ra. Vì vậy, để tính toán chỉ tiêu này, ta cần sử dụng giá bán kế hoạch để so sánh với doanh thu thực tế. Giá bán thực tế chỉ dùng để tính doanh thu thực tế, giá thành sản xuất dùng để tính lợi nhuận, và giá thị trường là một yếu tố tham khảo nhưng không trực tiếp dùng trong công thức tính tỷ lệ hoàn thành kế hoạch tiêu thụ.
Để đạt được mức lợi nhuận cần thiết, doanh nghiệp có thể tác động vào nhiều yếu tố như giá bán, biến phí, sản lượng. Tuy nhiên, tổng định phí thường khó điều chỉnh trong ngắn hạn vì nó bao gồm các chi phí cố định như khấu hao, tiền thuê nhà xưởng, lương nhân viên quản lý,... Do đó, tác động vào tổng định phí thường không phải là lựa chọn tối ưu để đạt mức lợi nhuận mục tiêu một cách nhanh chóng.
Sản lượng hòa vốn là số lượng sản phẩm cần bán để doanh thu vừa đủ bù đắp chi phí. Nếu sản lượng hòa vốn cao, điều đó có nghĩa là doanh nghiệp cần bán được nhiều sản phẩm hơn để đạt điểm hòa vốn. Do đó, doanh thu hòa vốn cũng sẽ lớn hơn.