Điểm tới hạn A3 là nhiệt độ mà tại đó ferit bắt đầu chuyển biến thành austenit khi nung nóng. Khoảng nhiệt độ này nằm trong khoảng 727°C đến 911°C, tùy thuộc vào thành phần hợp kim của thép.
Thép cacbon kết cấu được chia thành hai loại chính: thép cacbon kết cấu chất lượng thường và thép cacbon kết cấu chất lượng tốt. Thép cacbon hợp kim là một loại thép khác, trong đó các nguyên tố hợp kim được thêm vào để cải thiện các tính chất cơ học và hóa học của thép. Vì vậy, thép cacbon hợp kim không thuộc loại thép cacbon kết cấu thông thường.
Phương án A: Thép cacbon kết cấu chất lượng thường là một loại thép cacbon kết cấu. Phương án B: Thép cacbon kết cấu chất lượng tốt là một loại thép cacbon kết cấu. Phương án C: Thép cacbon hợp kim không phải là thép cacbon kết cấu. Phương án D: Vì có một phương án đúng (C), nên phương án này sai.
Mạng tinh thể là một cấu trúc hình học mô tả sự sắp xếp tuần hoàn của các nguyên tử, ion hoặc phân tử trong một chất rắn tinh thể. Ba yếu tố cơ bản cấu thành mạng tinh thể là: (1) Khối cơ bản (ô mạng cơ sở): là đơn vị nhỏ nhất lặp đi lặp lại trong không gian ba chiều để tạo thành toàn bộ mạng tinh thể. (2) Thông số mạng: là các hằng số (độ dài cạnh và góc) xác định hình dạng và kích thước của ô mạng cơ sở. (3) Mặt tinh thể: Các mặt phẳng chứa các nút mạng, có vai trò quan trọng trong việc xác định các tính chất của tinh thể.
Công thức δ=l1−l0l0×100%\delta = \frac{l_1 – l_0}{l_0} \times 100\%δ=l0l1−l0×100% biểu diễn độ giãn dài tương đối. Trong đó: l1l_1l1 là chiều dài sau khi kéo, l0l_0l0 là chiều dài ban đầu.
* Phương án A: Giới hạn biến dạng không được biểu diễn bằng công thức này. * Phương án B: Độ dai va đập là khả năng vật liệu chịu được tải trọng động, không liên quan đến công thức trên. * Phương án C: Độ giãn dài tương đối, đúng như phân tích ở trên, được tính bằng công thức đã cho. * Phương án D: Độ thắt tiết diện tương đối liên quan đến sự thay đổi diện tích tiết diện, không phải chiều dài.
Dung dịch rắn là một loại dung dịch mà trong đó chất tan và dung môi đều ở trạng thái rắn. Có hai dạng dung dịch rắn chính:
1. Dung dịch rắn thay thế: Các nguyên tử của chất tan thay thế vị trí của các nguyên tử dung môi trong mạng tinh thể. 2. Dung dịch rắn xen kẽ: Các nguyên tử của chất tan chiếm các vị trí trống (kẽ) giữa các nguyên tử dung môi trong mạng tinh thể.