Cho phép lắp dựng các bộ phận kết cấu khác lên trên kết cấu bê tông đổ tại chỗ sau khi cường độ đã đạt:
A.
A. Đạt 50% cường độ thiết kế
B.
B. Đạt 70% cường độ thiết kế
C.
C. Đạt 90% cường độ thiết kế
D.
D. Đạt 100% cường độ thiết kế
Trả lời:
Đáp án đúng: B
Theo quy định về thi công và nghiệm thu kết cấu bê tông cốt thép, việc lắp dựng các bộ phận kết cấu khác lên trên kết cấu bê tông đổ tại chỗ chỉ được phép thực hiện sau khi bê tông đạt được cường độ thiết kế tối thiểu để đảm bảo an toàn và khả năng chịu lực của công trình. Cụ thể, kết cấu bê tông cần đạt 90% cường độ thiết kế trở lên. Do đó, đáp án C (90% cường độ thiết kế) là đáp án chính xác nhất.
Theo TCVN 5639-1991, trình tự chạy thử nghiệm thu cho dây chuyền công nghệ được thực hiện theo các bước sau:
1. **Đơn động:** Kiểm tra và chạy thử từng thiết bị, máy móc riêng lẻ trong dây chuyền để đảm bảo chúng hoạt động đúng thông số kỹ thuật.
2. **Liên động:** Chạy thử đồng thời các thiết bị, máy móc có liên quan đến nhau trong dây chuyền để kiểm tra sự phối hợp và đồng bộ giữa chúng.
3. **Không tải:** Chạy toàn bộ dây chuyền ở chế độ không tải (không có nguyên vật liệu hoặc sản phẩm) để kiểm tra tính ổn định và khả năng hoạt động liên tục.
4. **Có tải:** Chạy toàn bộ dây chuyền ở chế độ có tải (có nguyên vật liệu hoặc sản phẩm) để kiểm tra hiệu suất, chất lượng sản phẩm và khả năng đáp ứng yêu cầu kỹ thuật.
Như vậy, đáp án A là phù hợp nhất.
Đáp án C là đáp án chính xác. Theo quy trình kỹ thuật và kinh nghiệm thi công, lớp gia tải khi phụt vữa vào nền đá có thể không cần thiết trong các trường hợp sau:
* **Nền đá nguyên khối, ít nứt nẻ, khi phụt thử nghiệm cho kết quả tốt:** Khi nền đá có cấu trúc tốt, ít khe nứt, vữa có thể dễ dàng lấp đầy các khoảng trống mà không gây ra áp lực lớn lên nền. Việc phụt thử nghiệm để kiểm tra khả năng tiếp nhận vữa của nền đá là rất quan trọng.
* **Áp lực phụt thiết kế không lớn hơn 0,2 MPa:** Khi áp lực phụt thấp, nguy cơ gây biến dạng hoặc phá vỡ nền đá là nhỏ. Do đó, không cần thiết phải bố trí lớp gia tải để tăng cường khả năng chịu lực của nền.
Đáp án D sai vì không phải lúc nào cũng cần lớp gia tải. Đáp án A và B đúng nhưng chưa bao quát hết các trường hợp nên không đầy đủ bằng đáp án C.
Trong thi công đúc hẫng đốt K0, yêu cầu quan trọng là bê tông phải đạt cường độ cao sớm để có thể nhanh chóng chịu được tải trọng. Do đó, phụ gia sử dụng cần phải có khả năng tăng cường độ cao sớm của bê tông.
* **Phương án A** (Phụ gia siêu dẻo, siêu giảm nước, tăng cường độ cao sớm) là phù hợp nhất vì đáp ứng được yêu cầu này.
* **Phương án B** (Phụ gia siêu dẻo, siêu giảm nước, kéo dài thời gian ninh kết, tăng cường độ cao) không phù hợp vì kéo dài thời gian ninh kết không có lợi cho việc thi công đốt K0.
* **Phương án C** (Phụ gia cuốn khí) và **Phương án D** (Phụ gia trợ bơm) không trực tiếp liên quan đến việc tăng cường độ cao sớm cho bê tông.
Phương án C là đáp án chính xác. Theo quy trình kỹ thuật và kinh nghiệm thi công, để đảm bảo độ ổn định và giảm thiểu lún không đều giữa mố cầu và nền đường, đoạn tiếp giáp cần được đắp cẩn thận. Việc đắp thành từng lớp từ dưới lên trên giúp kiểm soát độ chặt của đất. Chiều dày đầm nén không quá 20 cm giúp đảm bảo hiệu quả đầm nén, tránh tình trạng đất bị xốp và dễ lún về sau. Các phương án khác không đảm bảo được yêu cầu kỹ thuật này.
Độ bằng phẳng là một đặc tính bề mặt, được đánh giá bằng mắt thường hoặc bằng các thiết bị đo chuyên dụng trên bề mặt đã hoàn thiện của lớp móng. Các thí nghiệm trên mẫu khoan chỉ xác định các chỉ tiêu cơ lý của vật liệu như khối lượng thể tích khô, cường độ chịu nén, cường độ ép chẻ. Vì vậy, thí nghiệm trên các mẫu khoan mẫu ở hiện trường không cho phép xác định độ bằng phẳng của lớp móng cấp phối gia cố xi măng.